(VINANET) – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới biến động nhẹ trong phiên giao dịch 18/12 trên thị trường thé giới (kết thúc vào rạng sáng 19/12 giờ VN). Dầu đảo chiều giảm sau 2 phiên tăng trước đó, nhưng vàng tăng nhẹ trở lại. Tuy nhiên, xu hướng giá nhìn chung không thay đổi, các thị trường vẫn chịu áp lực giảm giá lâu dài.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu đảo chiều giảm xuống mức thấp nhất 5 năm, với dầu Brent giảm 3,1% và WTI giảm 4,2% do lo ngại dư cung toàn cầu sẽ trầm trọng hơn.

Cuộc đình công của công nhân bốc xếp tại các cảng ở Nigeria đã chấm dứt, giúp nguồn cung dầu toàn cầu có khả năng tăng trở lại. Giới phân tích cho rằng thị trường đón nhận tín hiệu này với ý nghĩa rằng xuất khẩu dầu của Nigeria sẽ tăng trở lại. Nigeria hiện là nước sản xuất dầu lớn nhất châu Phi, xuất khẩu 2,2 triệu thùng/ngày.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex New York giảm 2,36 USD (-4,2%) xuống 54,11 USD/thùng, thấp nhất từ tháng 5/2009. Khối lượng giao dịch cao hơn 40% so với mức trung bình 100 ngày.

Giá dầu Brent giao tháng 2/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 1,91 USD (-3,1%) xuống 59,27 USD/thùng, thấp nhất từ tháng 5/2009. Khối lượng giao dịch cao hơn 11% so với mức trung bình 10 ngày. Hợp đồng giao tháng 1/2015 đáo hạn vào hôm 16/12 ở mức 59,5 USD/thùng, thấp nhất kể từ tháng 5/2009.

Theo giới phân tích, có rất ít lý do giúp thị trường dầu ổn định với bức tranh cung cầu như hiện nay và việc giảm sản lượng có thể chỉ diễn ra trong nửa cuối năm 2015.

Bộ trưởng Dầu mỏ Arab Saudi Ali al-Naimi cho rằng giá dầu thế giới giảm chỉ mang tính “tạm thời” và nhu cầu dầu thô sẽ tăng trở lại khi kinh tế toàn cầu hồi phục. Tuy nhiên tuyên bố của ông al-Naimi rằng OPEC sẽ tiếp tục duy trì sản lượng hiện tại để giữ thị phần đã gây áp lực giảm giá dầu.

Giá xăng và dầu diesel đã chạm đáy mới. Giá xăng RBOB giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex giảm 3,9 cent (-2,5%) xuống 1,5272 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 8/2010, trong khi giá dầu diesel giao tháng 1/2015 giảm 6,98 cent (-3,5%) xuống 1,9387 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 5/2009.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ sau khi Fed tuyên bố sẽ giữ quan điểm kiên nhẫn về nâng lãi suất, đẩy giá chứng khoán và hàng hóa lên.

Tuy nhiên, thị trường vàng nhìn chung vẫn tiếp tục chịu áp lực khi USD tăng giá so với các đồng tiền mạnh trong giỏ tiền tệ.

Trong khi đó, công nhân bốc xếp tại Nigeria đã ngừng đình công và cho phép hoạt động tại các cảng trở lại bình thường. Giới phân tích cho rằng thị trường đón nhận tín hiệu này với ý nghĩa rằng xuất khẩu dầu của Nigeria sẽ tăng trở lại. Nigeria hiện là nước sản xuất dầu lớn nhất châu Phi, xuất khẩu 2,2 triệu thùng/ngày.

Chủ tịch Fed Janet Yellen cho biết, Fed không thể nâng lãi suất trong ít nhất vài phiên họp tới, điều này có nghĩa lãi suất có tăng cũng phải ít nhất đến tháng 4 năm sau.

Việc Mỹ nâng lãi suất sẽ làm tăng chi phí cơ hội nắm giữ tài sản phi lãi suất như vàng, đồng thời đẩy giá USD lên.

Các nhà kinh tế học tại nhiều ngân hàng lớn nhất ở Phố Wall vẫn tin rằng Fed sẽ nâng lãi suất vào tháng 6 năm tới. Và đà tăng của giá vàng vẫn bị kìm hãm do đồn đoán lãi suất sẽ tăng vào năm tới.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,1% lên 15,86 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,7% lên 1.195 USD/ounce và giá palladium tăng 2,1% lên 792,1 USD/ounce.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
54,88
+0,77
+1,42%
Dầu Brent
USD/thùng
59,27
-1,91
-3,12%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
45.020,00
-670,00
-1,47%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,66
+0,02
+0,55%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
154,00
+1,28
+0,84%
Dầu đốt
US cent/gallon
196,00
+2,13
+1,10%
Dầu khí
USD/tấn
544,25
-3,75
-0,68%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
57.100,00
-400,00
-0,70%
Vàng New York
USD/ounce
1.197,20
+2,40
+0,20%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.573,00
+1,00
+0,02%
Bạc New York
USD/ounce
15,89
-0,04
-0,28%
Bạc TOCOM
JPY/g
60,80
-0,20
-0,33%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.199,13
-1,62
-0,13%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
792,10
-0,60
-0,08%
Đồng New York
US cent/lb
285,15
-0,20
-0,07%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.315,00
-53,00
-0,83%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.911,00
-10,50
-0,55%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.126,00
-14,00
-0,65%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
19.100,00
-350,00
-1,80%
Ngô
US cent/bushel
411,00
+2,75
+0,67%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
655,25
+6,75
+1,04%
Lúa mạch
US cent/bushel
316,25
+1,25
+0,40%
Gạo thô
USD/cwt
12,11
-0,01
-0,04%
Đậu tương
US cent/bushel
1.043,25
+8,00
+0,77%
Khô đậu tương
USD/tấn
353,90
+4,20
+1,20%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,08
+0,11
+0,34%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
437,60
-0,10
-0,02%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.965,00
+50,00
+1,72%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
174,35
+2,50
+1,45%
Đường thô
US cent/lb
14,99
+0,27
+1,83%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
144,70
-3,25
-2,20%
Bông
US cent/lb
60,82
+0,17
+0,28%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
336,20
-0,70
-0,21%
Cao su TOCOM
JPY/kg
204,20
+0,80
+0,39%
Ethanol CME
USD/gallon
1,64
+0,02
+1,36%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg