(VINANET) – Phiên cuối tháng trên thị trường thế giới (29/5, kết thúc vào rạng sáng 30/5 giờ VN), giá dầu tăng mạnh. Vàng và cà phê cũng tăng. Đây là phiên giao dịch cuối cùng của tháng 5, một tháng thị trường hàng hóa biến động rất mạnh. Những tác nhân ảnh hưởng tới giá hàng hóa tháng qua trước hết phải kể tới xu hướng tăng giá của USD so với các đồng tiền chủ chốt do Fed khẳng định sẽ nâng lãi suất trong năm nay. Ngoài ra, các yếu tố cơ bản và địa chính trị cũng tác động tới giá cả. Tuy nhiên, so với đầu tháng 5, giá dầu và vàng phiên cuối tháng hầu như không thay đổi. Những mặt hàng có giá chênh lệch lớn giữa 2 thời điểm đó là nhôm, lúa mì và cà phê.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu đóng cửa phiên cuối tuần tăng mạnh sau số liệu cho thấy tồn kho dầu của Mỹ giảm, số lượng giàn khoan tại Mỹ tạm ngừng hoạt động cao hơn dự báo. Việc đồng USD ổn định ở mức cao so với các đồng ngoại tệ mạnh khác và tình hình bất ổn gia tăng tại Trung Đông cũng tác động tới thị trường dầu phiên cuối tuần.

Đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần và cũng là cuối tháng, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex New York tăng 2,62 USD, tương đương 4,5%, lên 60,30 USD/thùng. Giá dầu Brent cùng kỳ hạn trên sàn ICE Futures Europe London tăng 2,98 USD, tương đương 4,8%, lên 65,56 USD/thùng.

Đây là mức giá cao nhất của hai loại dầu thô này trong vòng một tháng rưỡi vừa qua. Tính chung trong tuần qua, giá dầu WTI tăng khoảng 1%, là tuần thứ 11 tăng liên tiếp, còn dầu Brent ổn định.

Số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ trong tuần kết thúc vào 29/5 giảm 13 xuống còn 646 giàn, thấp nhất kể từ tháng 8/2010, theo số liệu của Baker Hughes. Giá dầu tăng sau tin này.

Các nhà sản xuất dầu mỏ đã cắt giảm đáng kể chi phí đầu tư và hoạt động khoan dầu sau khi sản lượng dầu đá phiến tại Mỹ bùng nổ gây ra tình trạng dư cung toàn cầu hồi năm ngoái. Do số giàn khoan đang hoạt động cảu Mỹ bắt đầu giảm trong những tháng gần đây, giá dầu tăng trước đồn đoán tăng trưởng sản lượng dầu của Mỹ sẽ chậm lại.

Giá đồng USD giữ được ở mức cao 2,5% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác trong tháng Năm này cũng là nguyên nhân làm cho giá dầu thị trường Mỹ và thế giới tăng trong ngày giao dịch cuối cùng của tháng Năm.
Nhóm vũ trang Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng nhận trách nhiệm về vụ đánh bom vào một nhà thờ ở Saudi Arabia làm ba người thiệt mạng cũng khiến các nhà đầu tư lo ngại về sự gián đoạn của nguồn cung cấp dầu từ quốc gia thành viên lớn nhất trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa thế giới (OPEC).

Trong tháng qua, dầu nằm trong số những mặt hàng có giá biến động mạnh nhất. Tuy nhiên tính chung cả tháng thì dầu WTI chỉ tăng 1,1%, còn dầu Brent giảm 1,8%.

Số liệu mới nhất về lượng dầu lưu kho của Mỹ đã đưa ra những tin tức trái chiều về thị trường dầu. Lượng dầu lưu kho trong tuần kết thúc vào 22/5 giảm tuần thứ 4 liên tiếp sau khi đạt kỷ lục vào tháng 4 và nguồn cung xăng cũng giảm mạnh hơn dự đoán. Tuy nhiên, sản lượng dầu của Mỹ tuần qua tiếp tục tăng.

Theo số liệu của chính phủ Mỹ, sản lượng dầu thô của nước này chưa giảm và một số nhà phân tích cảnh báo rằng số lượng giàn khoan đã chạm đáy. Với việc giá dầu Mỹ xoay quanh mức 60 USD/thùng, một số nhà sản xuất dầu đá phiến cho biết sẽ tăng số giàn khoan và tăng sản lượng - điều này có thể kéo dài thời kỳ giá dầu ở mức thấp.

Giới thương nhân đang theo dõi sát sao phiên họp của OPEC vào tuần tới để tìm manh mối về động thái tiếp theo của Khối này. Hồi tháng 11/2014, OPEC đã quyết định giữ nguyên mục tiêu sản lượng bất kể giá dầu lao dốc. Trong những tháng gần đây, sản lượng dầu của Khối này luôn cao hơn mức 30 triệu thùng/ngày.

Phần lớn giới quan sát thị trường dự đoán OPEC sẽ tiếp tục giữ nguyên quan điểm không cắt giảm sản lượng trong phiên họp tới.

Theo số liệu của EIA, sản lượng dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc vào 22/5 tăng 304.000 thùng/ngày lên 9,57 triệu thùng/ngày, cao nhất kể từ 1983

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tháng tăng do lo ngại khủng hoảng nợ Hy Lạp trong bối cảnh USD vững giá.

Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.190,7 USD/ounce lúc đóng cửa phiên cuối tháng. Giá vàng giao tháng 6/2015 tăng 1,3 USD lên 1.189,4 USD/ounce. Trong khi đó, giá vàng giao tháng 8/2015 tăng 1 USD, tương đương 0,1%, lên 1.189,8 USD/ounce.

Có nhiều dấu hiệu trái chiều về kết quả các cuộc đàm phán nợ của Hy Lạp. Nếu không đạt được thỏa thuận, Hy Lạp có thể đối mặt với rủi ro vỡ nợ trong vài tuần tới.

Tuy nhiên, tính chung trong cả tuần, giá vàng giảm tuần thứ 2 liên tiếp, bởi triển vọng Fed sắp nâng lãi suất khiến USD tăng giá và gây áp lực lên vàng.

Trong tháng 5, giá vàng giao ngay tăng 0,6%, ghi nhận tháng thứ 2 tăng liên tiếp, còn vàng kỳ hạn tăng 0,7%, lần tăng đầu tiên trong năm nay.

Người phát ngôn chính phủ Hy Lạp hôm thứ Năm cho biết, nước này dự định sẽ đồng ý thỏa thuận tiền mặt đổi lấy cải cách vào Chủ nhật tới. Tuy nhiên, các quan chức khu vực eurozone cho rằng rất khó đạt được thỏa thuận này và giám đốc IMF cho biết, Hy Lạp có thể phải rời eurozone.

Giao dịch tại châu Á - thị trường vật chất chủ chốt - khá yên ắng khi chênh lệch giữa giá nội địa và quốc tế tại hầu hết các trung tâm giao dịch chính tại châu Á không tăng trong tuần bất chấp giá vàng giảm.

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá nhôm giảm trong phiên cuối tháng do lo ngại sản lượng của Trung Quốc sẽ làm tăng dư cung trên toàn cầu. Nhôm kỳ hạn 3 tháng trên sàn London giảm 2% xuống 1.740 USD/tấn.

Tính chung trong tháng 5, giá nhôm giảm 9,6%, mức giảm mạnh nhất trong vòng 2 năm rưỡi.

Sản lượng nhôm Trung Quốc tháng 4 tăng lên 2,59 triệu tấn.

Đồng cũng giảm trong phiên cuối tháng, và là tháng giảm giá đầu tiên trong vòng 4 tháng, với mức giảm gần 4%, do tồn trữ còn nhiều mặc dù hy vọng các biện pháp kích thích kinh tế của Trung Quốc sẽ đẩy nhu cầu gia tăng.

Trong số các kim loại khác, giá nickel giảm gần 10% trong tháng.

Trên thị trường nông sản, lúa mì phiên cuối tháng giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần, song tính chung cả tháng 5 đã tăng trên 5%, mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 11 năm ngoái, do lo ngại thời tiết ở Mỹ.

Cà phê phiên cuối tháng tăng nhẹ, với arabica trên sàn New York kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 1 US cent/lb lên 126,15 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 0,8 US cent/lb lên 128,6 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá tăng 0,7 US cent/lb lên 132,3 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 3/2016 giá tăng 0,75 US cent/lb lên 135,9 US cent/lb. Robusta trên sàn London kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 10 USD/tấn lên 1.632 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 8 USD/tấn lên 1.653 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá tăng 7 USD/tấn lên 1.672 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 1/2016 giá tăng 6 USD/tấn lên 1.692 USD/tấn.

Trên thị trường Việt Nam phiên cuối tháng, giá cà phê tăng theo xu hướng thế giới. Sáng nay 30/5, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tăng 200.000 đồng/tấn lên 34,8-35,3 triệu đồng/tấn, ghi nhận phiên thứ 3 tăng liên tiếp. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB tăng 10 USD từ 1.670 USD/tấn lên 1.680 USD/tấn.

Tháng 5 giá cà phê biến động khá mạnh, và tính chung cả tháng giảm.

Hầu như suốt tuần qua, nông dân và thương nhân nội địa Việt Nam không bán hàng do giá tham chiếu cà phê kỳ hạn London quá thấp khiến các nhà xuất khẩu Việt Nam cũng không có những thương vụ nào đáng kể, cho dù mức chênh lệch xuất khẩu được cho là đã cao hơn cà phê Indonesia.

Một số người cho rằng thị trường tiêu thụ hiện đang giữ quan điểm rằng thời gian kháng giá sắp tới hạn vì chỉ còn khoảng 4 tháng rưỡi nữa là đến vụ thu hoạch mới, được dự đoán có sản lượng cao hơn, và khi đó nông dân và thương nhân nội địa Việt Nam vì lý do tài chính và hậu cần, sẽ phải mở bán lượng cà phê lưu kho.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 30/4
Giá 23/5
Giá 30/5
Giá 30/5 so với 19/5
Giá 30/5 so với 19/5 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
59,62
59,72
60,30
+2,62
+4,54%
Dầu Brent
USD/thùng
66,64
65,37
65,56
+2,98
+4,76%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
49.040,00
49.050,00
49.940,00
+1.690,00
+3,50%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,73
2,89
2,64
-0,06
-2,37%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
204,48
205,39
206,27
+9,27
+4,71%
Dầu đốt
US cent/gallon
197,63
195,25
194,97
+7,65
+4,08%
Dầu khí
USD/tấn
601,50
599,50
593,50
+22,25
+3,89%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
62.890,00
62.460,00
63.750,00
+1.610,00
+2,59%
Vàng New York
USD/ounce
1.183,30
1.204,90
1.189,80
+1,00
+0,08%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.544,00
4.697,00
4.735,00
+14,00
+0,30%
Bạc New York
USD/ounce
16,15
17,05
16,70
+0,03
+0,19%
Bạc TOCOM
JPY/g
62,10
66,40
66,80
0,00
0,00%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.142,88
1.146,25
1.112,37
-4,46
-0,40%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
779,50
789,98
777,35
-9,80
-1,25%
Đồng New York
US cent/lb
287,90
281,10
272,80
-3,95
-1,43%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.335,00
6.161,50
6.015,00
-80,00
-1,31%

 Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.925,00
1.768,00
1.740,00
-36,50
-2,05%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.345,00
2.178,00
2.188,00
-40,00
-1,80%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
16.025,00
15.775,00
15.600,00
+50,00
+0,32%
Ngô
US cent/bushel
366,00
360,00
351,50
-2,00
-0,57%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
475,00
515,25
477,00
-11,75
-2,40%
Lúa mạch
US cent/bushel
244,75
242,50
234,00
-6,00
-2,50%
Gạo thô
USD/cwt
10,29
9,43
9,51
0,00
0,00%
Đậu tương
US cent/bushel
978,50
924,25
934,00
+8,00
+0,86%
Khô đậu tương
USD/tấn
316,80
304,20
305,70
+0,90
+0,30%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,77
31,64
33,33
+1,27
+3,96%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
446,50
463,20
472,80
+6,20
+1,33%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.943,00
3.153,00
3.085,00
-33,00
-1,06%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
137,45
126,95
126,15
+1,00
+0,80%
Đường thô
US cent/lb
13,18
12,31
11,98
+0,04
+0,34%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
115,30
118,55
114,25
-2,60
-2,23%
Bông
US cent/lb
67,88
63,30
64,35
+0,02
+0,03%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
254,00
273,80
274,10
+1,60
+0,59%
Cao su TOCOM
JPY/kg
221,60
220,00
239,60
+1,60
+0,67%
Ethanol CME
USD/gallon
1,60
1,56
1,52
-0,02
-0,98%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg