(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 4/6 (kết thúc vào rạng sáng 5/6 giờ VN), giá dầu giảm mạnh sau khi OPEC quyết định giữ nguyên sản lượng. Vàng cũng giảm theo xu hướng giá dầu. Tuy nhiên, hàng hóa nhẹ tăng giá bởi đồng real Brazil tăng so với USD.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần khi giới thương nhân đánh giá tình trạng dư cung trước phiên họp OPEC vào thứ Sáu 5/6.

Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex New York giảm 1,64 USD, tương đương 2,7%, xuống 58 USD/thùng. Giá dầu Brent cùng kỳ hạn trên sàn ICE Futures Europe London giảm 1,77 USD, tương ứng 2,8%, xuống 62,03 USD/thùng.

OPEC - đã quyết định không giảm sản lượng trong phiên họp hồi tháng 11 năm ngoái bất chấp giá dầu lao dốc - được dự đoán tiếp tục giữ nguyên chiến lược hiện tại. Sản lượng dầu của Khối thời gian qua liên tục vượt mục tiêu sản lượng 30 triệu thùng/ngày.

Sản lượng dầu của Iraq, Nga, Arab Saudi và Mỹ lên cao nhất trong nhiều thập kỷ qua. Nếu các cuộc đàm phán về vấn đề hạt nhân của Iran tích cực giúp dỡ bỏ lệnh trừng phạt đối với nước này, xuất khẩu dầu thô của Iran sẽ tăng mạnh trong năm nay.

Trong cuộc hội thảo trước thềm phiên họp OPEC, Giám đốc điều hành ConocoPhillips Ryan Lance cho biết, sản lượng dầu đá phiến của Mỹ sẽ tăng trong những năm tới khi hoạt động khoan dầu có chi phí thấp hơn và hiệu quả hơn. Hiệu quả khai thác dầu đá phiên có thể tăng 15-20% vào năm 2020.

Một số nhà sản xuất dầu đá phiến của Mỹ cho biết, nếu giá dầu ổn định ở mức trên 60 USD/thùng, họ có thể tăng sản lượng. Giá dầu WTI nhiều phiên giao dịch trên 60 USD/thùng tỏng những tuần gần đây.

Cung vượt cầu, chủ yếu do bùng nổ sản lượng dầu của Mỹ và một số nước thành viên OPEC đã khiến giá dầu giảm hơn 45% so với mức đỉnh hồi tháng 6 năm ngoái. Nhiều nhà phân tích và giới đầu tư dự đoán dư cung sẽ giảm trong những tháng tới khi nhu cầu tăng lên và sản lượng dầu của Mỹ giảm sau khi các công ty dầu mỏ cắt giảm đầu tư và chi tiêu. Tuy nhiên, các nhà quan sát thị trường cho biết, hiện sản lượng dầu toàn cầu vẫn cao hơn tiêu thụ.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex giảm 6,47 cent, tương ứng 3,2%, xuống 1,9806 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 7/2015 giảm 4,79 cent, hoặc 2,5%, xuống 1,8439 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm xuống mức thấp nhất 5 tuần sau số liệu kinh tế tích cực của Mỹ làm tăng đồn đoán Fed nâng lãi suất trong năm nay.

Giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.175,53 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 8/2015 trên sàn Comex New York giảm 9,7 USD, tương đương 0,8%, xuống 1.175,2 USD/ounce, thấp nhất kể từ 1/5.

Số liệu công bố hôm thứ Năm 4/6 cho thấy, năng suất phi nông nghiệp của Mỹ bất ngờ giảm trong quý I/2015, khiến chi phí sản xuất liên quan đến lao động tăng. Các số liệu khác cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu trong tuần kết thúc vào 30/5 giảm 8.000 xuống còn 276.000 đơn, trong khi số người đang hưởng trợ cấp xuống thấp nhất kể từ năm 2000.

Các báo cáo này có thể giúp Fed duy trì lộ trình nâng lãi suất vào cuối năm nay.

Giới thương nhân sẽ theo dõi số liệu việc làm phi nông nghiệp của Mỹ, một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá sức khỏe của nền kinh tế lớn nhất thế giới, công bố vào thứ Sáu 5/6.

Nhu cầu vàng vật chất tại các thị trường chủ chốt châu Á vẫn ảm đạm.

Chênh lệch giữa giá vàng nội địa và quốc tế ở Trung Quốc hầu như không thay đổi trong vài tuần qua ở 1,5-2 USD/ounce. Tại Ấn Độ giá vàng nội địa gần như ngang bằng với giá quốc tế.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2,4% xuống 16,23 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,7% xuống 1.096,99 USD/ounce trong khi đó, giá palladium lại tăng 0,3% lên 754 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá hầu hết các hàng hóa mềm đều tăng khi đồng nội tệ real Brazil tăng giá so với USD, đặc biệt giá cà phê Arabica lên cao nhất 10 ngày.

Societe General đã hạ dự báo giá nông sản, kể cả cà phê, ngô và đường. Ngân hàng này cũng hạ dự báo giá cà phê Arabica thêm 17 US cent/lb, cho thấy ước tính thị trường toàn cầu sẽ dư thừa 905.000 bao trong niên vụ 2015-2016, trái ngược với dự báo trước đây cho rằng thiếu thụ 2,2 triệu bao.

Giá cà phê tiếp tục xu hướng tăng. Trên sàn New York, cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 1,4 US cent/lb lên 135,7 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 1,25 US cent/lb lên 138,05 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá tăng 1,2 US cent/lb lên 141,45 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 3/2016 giá tăng 1,2 US cent/lb lên 144,9 US cent/lb.

Trên sàn London, cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 13 USD/tấn lên 1.736 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 12 USD/tấn lên 1.752 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá tăng 12 USD/tấn lên 1.771 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 1/2016 giá tăng 12 USD/tấn lên 1.790 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam tăng theo xu hướng thế giới. Sáng nay 5/6, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tăng 300.000 đồng/tấn lên 36,8-37,2 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB tăng 13 từ 1.773 USD/tấn lên 1.786 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
58
-1,64
-2,7%
Dầu Brent
USD/thùng
62,03
-1,77
-2,8%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
48.520,00
-930,00
-1,88%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,63
+0,00
+0,15%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
199,24
+1,18
+0,60%
Dầu đốt
US cent/gallon
184,38
-0,01
-0,01%
Dầu khí
USD/tấn
568,75
+0,25
+0,04%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
62.870,00
-1.000,00
-1,57%
Vàng New York
USD/ounce
1.175,53
-2,00
-0,8%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.700,00
-21,00
-0,44%
Bạc New York
USD/ounce
16,14
+0,03
+0,20%
Bạc TOCOM
JPY/g
64,80
-1,10
-1,67%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.099,68
-0,32
-0,03%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
757,55
+1,43
+0,19%
Đồng New York
US cent/lb
268,10
-0,60
-0,22%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.915,00
-96,00
-1,60%

 Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.743,00
-9,00
-0,51%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.142,00
-30,00
-1,38%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
15.450,00
-150,00
-0,96%
Ngô
US cent/bushel
362,50
-1,00
-0,28%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
520,25
-3,50
-0,67%
Lúa mạch
US cent/bushel
253,25
-0,75
-0,30%
Gạo thô
USD/cwt
9,97
+0,05
+0,45%
Đậu tương
US cent/bushel
942,75
-3,75
-0,40%
Khô đậu tương

           USD/tấn         

304,10
-1,60
-0,52%
Dầu đậu tương
US cent/lb
34,46
-0,07
-0,20%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
497,30
-0,40
-0,08%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.115,00
-10,00
-0,32%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
135,70
+1,40
+1,04%
Đường thô
US cent/lb
12,12
+0,07
+0,58%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
113,90
+3,00
+2,71%
Bông
US cent/lb
65,16
+0,04
+0,06%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
--
--
--
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
284,80
+1,30
+0,46%
Cao su TOCOM
JPY/kg
238,00
-0,80
-0,34%
Ethanol CME
USD/gallon
1,55
+0,02
+1,17%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg