(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 5/1 (kết thúc vào rạng sáng 6/1), giá hàng hóa biến động khá mạnh, không chỉ do các yếu tố cơ bản (cung- cầu) mà còn do các thông tin kinh tế, đặc biệt là khu vực đồng euro.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô giảm xuống dưới 50 USD/thùng USD/thùng lần đầu tiên kể từ tháng 4/2009 trước dấu hiệu cho thấy cung tiếp tục vượt cầu ít nhấ trong 6 tháng tới.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn tháng 2/2015 trên sàn Nymex New York giảm giảm 2,65 USD (-5%) xuống 50,04 USD/thùng, sau khi chạm 49,92 USD/thùng, thấp nhất kể từ 28/4/2009. Khối lượng giao dịch cao hơn 11% so với mức trung bình 100 ngày. Giá dầu WTI đã giảm 7,5% trong 3 phiên giao dịch vừa qua.

Giá dầu Brent giao tháng 2/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 3,31 USD (-5,9%) xuống 53,11 USD/thùng, thấp nhất kể từ 1/5/2009. Khối lượng giao dịch cao hơn 40% so với mức trung bình 100 ngày. Giá dầu Brent đã giảm 8,3% trong 3 phiên vừa qua.

Như vậy, giá dầu thô đã giảm tổng cộng 55% kể từ thời điểm tháng 6/2014, từ đỉnh cao 117 USD/thùng đối với dầu Brent và 107 USD/thùng đối với dầu thô WTI.
Nguồn cung dồi dào, nhất là tại Mỹ, và tăng trưởng nhu cầu yếu ớt đã khiến giá dầu liên tục tuột dốc những tháng qua. Người tiêu dùng được hưởng lợi trong khi các nước xuất khẩu dầu thô đang phải vật lộn để cân bằng ngân sách và các công ty dầu mỏ chứng kiến giá cổ phiếu sụt giảm.

Sản lượng dầu toàn cầu chưa có dấu hiệu chậm lại bất chấp việc nhiều công ty dầu mỏ đã giảm đầu tư.

Sản lượng khai thác năm 2014 của Nga đạt trung bình 10,58 triệu thùng/ngày, cộng với thông báo của Iraq đạt kim ngạch xuất khẩu dầu cao nhất trong vòng 35 năm qua và thông tin về việc hãng dầu khí ConocoPhillips của Mỹ phát hiện ra nguồn dầu đầu tiên trong dự án với Na Uy ở vùng Biển Bắc cho thấy sản lượng khai thác dầu thô của thế giới trong thời gian tới không giảm, mà có thể tiếp tục tăng.
Trước tình trạng giá dầu liên tục giảm, một số nhà sản xuất dầu Mỹ đã giảm chi tiêu trong năm 2015 nhưng có thể phải mất nhiều tháng trước khi tăng trưởng nguồn cung chậm lại đủ để giảm dư cung toàn cầu.

Trong cuộc suy thoái toàn cầu năm 2009, giá dầu WTI và Brent đều giảm xuống dưới 40 USD/thùng khi nhu cầu toàn cầu giảm mạnh. Tuy nhiên, theo giới phân tích, đợt giảm giá này rất khác biệt vì nguyên nhân chính là do dư cung thay vì nhu cầu giảm.

Arab Saudi tiếp tục gia tăng áp lực lên giá dầu trong phiên 5/1 khi hạ giá bán dầu giao tháng 2/2015 cho khách hàng Mỹ, trong khi tăng giá bán tại châu Á. Việc Arab Saudi hạ giá bán dầu cho khách hàng Mỹ trong những tháng gần đây đã gây áp lực nặng nề lên thị trường kỳ hạn.

Các quỹ phòng hộ và nhà quản lý tiền tệ đã tăng đặt cược giá dầu trên sàn Nymex sẽ tiếp tục giảm trong tuần kết thúc vào 30/12, theo số liệu của Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai Mỹ.

Bất chấp giá dầu thô giảm mạnh buộc nhiều giàn khoan phải tạm ngừng hoạt động trong năm 2014, báo cáo mới nhất của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, trong năm 2015 sản lượng khai thác dầu nội địa của Mỹ vẫn tiếp tục chiều hướng tăng, có thể đạt mức trung bình 9,3 triệu thùng/ngày, tăng khoảng 700.000 thùng/ngày so với mức trung bình năm 2014.

Trả lời câu hỏi về tác động của việc giá dầu tiếp tục sụt giảm, người phát ngôn Nhà Trắng Josh Earnest cho biết Mỹ theo dõi chặt diễn biến của thị trường dầu khí thế giới và giá dầu giảm là có lợi cho nền kinh tế và người tiêu dùng Mỹ.
Hôm Chủ nhật 4/1, Citigroup đã hạ dự báo giá dầu Brent năm 2015 xuống 63 USD/thùng từ 80 USD/thùng trước đó, và giá dầu WTI xuống 55 USD/thùng từ 72 USD/thùng trước đó.

Ecuador, thành viên nhỏ nhất trong OPEC, hôm thứ Hai 5/1 đã giảm 4% ngân sách tài khóa 2015 xuống 34,9 tỷ USD do dầu mất giá. Ngân sách nước này được tính theo giá dầu trung bình 79,7 USD/thùng trong năm nay.

USD mạnh lên, cao nhất nhiều năm so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ, cũng lầm trầm trọng thêm tình trạng tuột dốc của giá dầu. Dầu giao dịch bằng USD, do vậy, đồng bạc xanh tăng khiến dầu trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua sử dụng ngoại tệ.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex giảm 5,2 cent (-3,6%) xuống 1,3814 USD/gallon, thấp nhất kể từ 1/4/2009. Giá dầu diesel giao tháng 2/2015 giảm 4,65 cent (-2,6%) xuống 1,7492 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 29/9/2009

Trên thị trường kim loại quý, trái với giá dầu, giá vàng thế giới tăng trở lại vượt 1.200 USD/ounce do lo ngại về eurozone. Bên cạnh đó, euro giảm giá và sức mua vàng tại Trung Quốc tăng trước Tết âm lịch cũng hỗ trợ giá vàng.

Giá vàng kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York tăng 1,5% lên 1.204 USD/ounce, tăng phiên thứ 2 liên tiếp.

Giá vàng tăng khi cổ phiếu châu Âu giảm mạnh do bất ổn chính trị tại Hy Lạp trước cuộc bầu cử vào cuối tháng này, trong khi cổ phiếu năng lượng bị bán tháo ồ ạt khi giá dầu giảm xuống mức thấp nhất 5,5 năm qua.

Giá vàng tính theo euro tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 9/2013 khi đạt 1.007,47 euro/ounce. Tuy nhiên, giá vàng vẫn chịu áp lực khi USD tăng 0,4% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ và lên cao nhất 9 năm so với euro trước khả năng Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) tăng cường nới lỏng định lượng.

Nhu cầu vàng của Trung Quốc tăng trong những tuần gần đây trước kỳ nghỉ Tết âm lịch – thời điểm vàng được sử dụng làm quà tặng tại Trung Quốc. Nhu cầu vàng tại nước tiêu thụ lớn nhất thế giới này có thể tiếp tục tăng cho đến kỳ nghỉ vào tháng 2/2015.

Nhu cầu tăng khiến chênh lệch giá vàng nội địa và quốc tế tại Trung Quốc tăng. Giá vàng tại Sàn Giao dịch Vàng Thượng Hải cao hơn 7 USD/ounce so với giá quốc tế. Tuần trước giá chênh lệch đạt 4-5 USD/ounce.

Biên bản họp chính sách của Fed công bố vào thứ Tư 7/1 sẽ phần nào cho manh mối về thời điểm nâng lãi suất.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 2,8% lên 16,18 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,9% lên 1.210,9 USD/ounce và giá palladium tăng 0,7% lên 792,5 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản,giá cà phê đảo chiều tăng mạnh.

Trên sàn New York, cà phê arabica  kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 7,05 US cent/lb (+4,19%) lên 168,1 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 7 US cent/lb  (+4,1%) lên 170,75 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 6,8 US cent/lb  (+3,93%) lên 173,15 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 6,7 US cent/lb (+3,82%) lên 175,4 US cent/lb.

Yếu tố Brazil trên thị trường hiện liên quan nhiều đến các cơn mưa trại các vùng trồng cà phê arabica chủ chốt tại nước này trong quý I/2015. Lo ngại về thời tiết tại Brazil đã khiến giới đầu tư đổ thêm tiền vào cà phê arabia kỳ hạn, đẩy giá giao tháng 3/2015 tăng 4,19% lên 168,1 US cent/lb.

Trên sàn London, robusta kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 51 USD/tấn (+2,7%) lên 1.889 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 47 USD/tấn (+2,46%) lên 1.911 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 45 USD/tấn (+2,33%) lên 1.934 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 45 USD/tấn (+2,3%) lên 1.956 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam cũng tăng theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay (6/1), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đã có phiên tăng mạnh 1 triệu đồng/tấn lên 39,5-40,2 triệu đồng/tấn.  Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 47 USD/tấn từ 1.801 USD/tấn cuối tuần trước lên 1.848 USD/tấn.

Thị trường cà phê sẽ tiếp tục biến động với việc Societe Generale cảnh báo việc quỹ chỉ số đang tái cân bằng thị trường cà phê tương lai, trong khi về lý thuyết giá sẽ giảm khi các quỹ bán ra.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá
+/-
+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
50,30
+0,26
+0,52%

Dầu Brent

USD/thùng
53,51
+0,40
+0,75%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
41.790,00
-1.800,00
-4,13%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
2,94
+0,05
+1,87%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
138,53
+0,39
+0,28%

Dầu đốt

US cent/gallon
176,05
+1,13
+0,65%

Dầu khí

USD/tấn
510,75
+7,00
+1,39%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
53.170,00
-2.020,00
-3,66%

Vàng New York

USD/ounce
1.205,00
+1,00
+0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.617,00
-6,00
-0,13%

Bạc New York

USD/ounce
16,20
-0,02
-0,11%

Bạc TOCOM

JPY/g
62,30
0,00
0,00%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,
1.212,00
-0,69
-0,06%

Palladium giao ngay

USD/t oz,
797,33
+3,05
+0,38%

Đồng New York

US cent/lb
277,60
+1,00
+0,36%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
6.145,00
-110,00
-1,76%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.818,50
-13,50
-0,74%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.185,00
-20,00
-0,91%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
19.495,00
-150,00
-0,76%
Ngô
US cent/bushel
405,50
-0,50
-0,12%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
590,75
+1,75
+0,30%

Lúa mạch

US cent/bushel
306,00
+3,75
+1,24%

Gạo thô

USD/cwt
11,63
+0,04
+0,35%

Đậu tương

US cent/bushel
1.040,75
-4,50
-0,43%

Khô đậu tương

USD/tấn
352,40
-1,60
-0,45%

Dầu đậu tương

US cent/lb
32,68
-0,19
-0,58%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
447,40
-1,20
-0,27%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.944,00
+17,00
+0,58%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
168,10
+7,05
+4,38%

Đường thô

US cent/lb
14,26
+0,09
+0,64%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
146,45
+2,55
+1,77%
Bông
US cent/lb
60,58
-0,13
-0,21%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
325,00
-2,60
-0,79%

Cao su TOCOM

JPY/kg
214,70
+0,30
+0,14%

Ethanol CME

USD/gallon
1,57
-0,01
-0,57%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg