(VINANET) – Thị trường hàng hóa thế giới tuần qua không có nhiều thông tin tác động mạnh tới giá cả. Giá biến động chủ yếu bởi yếu tố tâm lý của nhà đầu tư.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng tuần thứ 4 liên tiếp.
Thị trường thế giới phiên cuối tuần 10/4 (kết thúc vào rạng ráng 11/4 giờ VN), giá dầu đồng loạt tăng sau những số liệu cho thấy số giàn khoan ở Mỹ giảm sút. Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tại New York kỳ hạn giao tháng 5 phiên cuối tuần giá tăng 0,85 USD/thùng, đạt 51,64 USD/thùng. Dầu Brent cùng kỳ hạn trên sàn London phiên cuối tuần tăng 1,3 USD/thùng, chốt ở 57,87 USD/thùng. Tính chung cả tuần giá dầu WTI tăng 5%, trong khi dầu Brent tăng 5,3%, là tuần thứ 4 liên tiếp giá dầu tăng.
Giới đầu tư giảm hy vọng vào khả năng Iran có thể sớm tăng xuất khẩu dầu mặc dù mới đạt được thỏa thuận khung với P5+1 về vấn đề hạt nhân.
“Thỏa thuận mới nhất với Iran chưa mở ra cánh cửa cho nước này tăng mạnh xuất khẩu dầu như nhiều người lo ngại trước đó”, chiến lược gia Harry Tchilinguirian thuộc ngân hàng BNP Paribas nhận xét.
Giá nhiên liệu trong tuần vưa qua cũng được hỗ trợ bởi dữ liệu kinh tế khởi sắc ở Mỹ và Đức.
Bên cạnh đó, hãng nghiên cứu Baker Hughes cho biết, số giàn khoan dầu hoạt động ở Mỹ tuần này chỉ giảm 42 giàn, còn 760 giàn. Trong 6 tháng qua, các công ty dầu lửa Mỹ đã phản ứng trước sự sụt giảm của giá dầu bằng cách liên tục cắt giảm số giàn khoan, với tổng số gần 800 giàn khoan bị ngừng hoạt động, tương đương với một một nửa số giàn khoan 1.609 hoạt động ở thời kỳ đỉnh điểm.
Tuy đã phục hồi trong thời gian gần đây, giá dầu Brent tại thị trường London hiện vẫn chỉ bằng khoảng một nửa so với mức 115 USD/thùng đạt được vào tháng 6 năm ngoái. Giá dầu đã sụt giảm chóng mặt vào cuối năm ngoái sau khi Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC) tuyên bố không cắt giảm sản lượng mà thay vào đó duy trì mức khai thác để dự thị phần.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng thế giới phiên cuối tuần cũng tăng, nhưng tính chung trong tuần giảm, là tuần giảm đầu tiên sau 3 tuần liên tiếp tăng.
Đóng cửa phiên cuối tuần 10/4 tại thị trường Mỹ, giá vàng giao ngay tăng 1% lên chốt phiên và chốt tuần ở mức 1.206,46 USD/ounce. Mức tăng này có được chủ yếu do kim loại quý đã bật trở lại sau khi đi qua ngưỡng kỹ thuật là 1.196 USD/ounce. Mức giá thấp này đã kích thích các nhà đầu tư gom hàng trở lại và nâng giá vàng lên vào cuối phiên. Mặc dù vậy, tính chung cả tuần, giá vàng vẫn để mất 0,3% so với một tuần trước đó khi trong suốt cả tuần, thị trường vàng hầu như không được nhận bất cứ thông tin nào hỗ trợ cho giá vàng.
Trước đó, trong phiên đầu tuần 6/4, giá vàng đã có lúc tăng lên mức cao nhất trong bảy tuần là 1.224,10 USD/ounce.
Chỉ đi lên trong hai phiên đầu tuần (ngày 6/4) và cuối tuần (10/4), giá vàng giảm khá mạnh trong cả ba phiên giữa tuần, chủ yếu do đồng bạc xanh tăng giá cùng những đồn đoán về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất trong năm nay.
Sự sụt giảm của giá vàng thế giới tuần qua được cho là phản ứng trước những thông tin không mấy khả quan về số liệu việc làm của Mỹ, làm tăng đồn đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ trì hoãn việc nâng lãi suất. Thêm một yếu tố nữa khiến giá vàng giảm mạnh trong tuần qua là giá đồng USD trong rổ tiền tệ thế giới tăng lên. Tuần qua USD đã tăng 1,2% so với các đồng tiền trong rổ tiền tệ, lên cao nhất trong vòng 3 tuần.
Bart Melek - Giám đốc chiến lược hàng hóa với TD Securities cho biết, những phản ứng của thị trường vàng tuần qua xuất phát chủ yếu từ những dữ liệu việc làm được công bố không mấy khả quan được công bố tuần trước đó. Bất kỳ phát ngôn, hành động nào của Fed trong thời gian tới cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường và kỳ vọng lạm phát.
Theo một số chuyên gia phân tích, trong năm nay, giá vàng có thể sẽ rơi xuống mức thấp nhất trong 5 năm qua là 1.100 USD/ounce do những nhân tố gắn chặt với thể trạng của nền kinh tế Mỹ, kinh tế châu Âu và cả các nền kinh tế đang nổi.
Tuy nhiên, theo Kitco News, tuần tới sẽ có thể là tuần thị trường vàng đánh dấu lại sự phục hồi của mình. Trước tiên, là hàng loạt báo cáo quan trọng về nền kinh tế Mỹ, như doanh số bán lẻ, sản xuất công nghiệp, lạm phát và dữ liệu nhà ở… sẽ lần lượt được công bố. Bên cạnh đó, chắc chắn giới đầu tư sẽ không thể bỏ qua và chờ đợi những tin tức về cuộc họp của Fed sẽ diễn ra vào ngày 28-29/4 tới. Và chắc chắn những dữ liệu quan trọng này sẽ là tâm điểm cho giới đầu tư vàng trong tuần tới.
Ngoài ra, nhu cầu vàng tăng đột biến của Ấn Độ trong ngày lễ Akshaya Tritiya sắp tới và thông tin về tăng trưởng GDP của Trung Quốc được công bố vào giữa tuần… có thể là khiến giá vàng “nhảy nhót”.
Sean Lusk – Giám đốc bảo hiểm rủi ro thương mại của Walsh Trading cho rằng, nếu các dữ liệu kinh tế không khả quan thì đây sẽ là tin tốt với thị trường vàng và ngược lại.
Song theo nhà phân tích Bart Melek, trong ngắn hạn vàng khó có thể vượt xa mốc 1.200 USD/ounce như mức trung bình trong vòng hơn 3 tháng qua.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 4/4
|
Giá 11/4
|
Giá 11/4 so với 10/4
|
Giá 11/4 so với 10/4 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
49,14
|
51,64
|
+0,85
|
+1,67%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
54,95
|
57,87
|
+1,30
|
+2,30%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
42.510,00
|
44.470,00
|
+540,00
|
+1,23%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,71
|
2,51
|
-0,02
|
-0,67%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
176,13
|
180,73
|
+4,81
|
+2,73%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
168,80
|
176,61
|
+3,93
|
+2,28%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
512,25
|
538,75
|
+12,25
|
+2,33%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
55.900,00
|
57.500,00
|
+520,00
|
+0,91%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.206,90
|
1.204,60
|
+11,00
|
+0,92%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.640,00
|
4.654,00
|
+32,00
|
+0,69%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,72
|
16,38
|
+0,21
|
+1,27%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
64,90
|
63,50
|
+0,60
|
+0,95%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.155,93
|
1.172,63
|
+16,38
|
+1,42%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
745,75
|
777,50
|
+13,95
|
+1,83%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
273,40
|
273,40
|
+0,50
|
+0,18%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.980,00
|
6.039,00
|
+44,00
|
+0,73%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.782,00
|
1.765,00
|
+2,50
|
+0,14%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.129,00
|
2.210,00
|
+33,00
|
+1,52%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
16.795,00
|
16.700,00
|
+100,00
|
+0,60%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
386,50
|
377,00
|
-1,00
|
-0,26%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
536,25
|
524,00
|
+6,50
|
+1,26%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
269,00
|
266,50
|
-2,50
|
-0,93%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,87
|
10,26
|
-0,14
|
-1,35%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
986,00
|
951,50
|
-2,00
|
-0,21%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
327,30
|
309,60
|
-2,40
|
-0,77%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,04
|
31,09
|
+0,25
|
+0,81%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
462,00
|
454,00
|
+0,70
|
+0,15%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.766,00
|
2.783,00
|
-6,00
|
-0,22%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
140,90
|
137,85
|
-2,30
|
-1,64%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,74
|
12,83
|
+0,03
|
+0,23%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
124,80
|
112,65
|
-4,55
|
-3,88%
|
Bông
|
US cent/lb
|
63,69
|
65,40
|
-0,73
|
-1,10%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
276,60
|
266,80
|
-3,10
|
-1,15%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
205,00
|
197,00
|
+1,00
|
+0,51%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,57
|
1,57
|
-0,01
|
-0,63%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg