(VINANET) – Thị trường hàng hóa thế giới tuần qua biến động mạnh. Dầu đã có một số phiên tăng giá, và tính chung trong tuần dầu WTI tại New York đã có tuần tăng giá đầu tiên trong vòng 8 tuần dù mức tăng còn khiêm tốn và dù dầu Brent vẫn giảm 8 tuần liên tiếp. Vàng tăng mạnh trong tuần qua bởi nhu cầu mua đầu tư mạnh.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng phiên cuối tuần sau khi Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã hạ dự báo tăng trưởng nguồn cung dầu trong năm nay.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex New York phiên cuối tuần tăng 2,44 USD (+5,3%) lên 48,69 USD/thùng. Tính chung cả tuần giá tăng 0,7%, dứt mạch giảm 7 tuần liên tiếp, dài nhất kể từ 1986. Đây là tuần tăng giá đầu tiên trong vòng 8 tuần qua.

Giá dầu Brent kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn ICE Futures Europe London phiên cuối tuần tăng 1,9 USD (+3,9%) lên 50,17 USD/thùng. Khối lượng giao dịch cao hơn 4% so với mức trung bình 100 ngày. Hợp đồng giao tháng 2/2015 đáo hạn hôm qua 16/1 sau khi giảm 1,2 USD xuống 47,67 USD/thùng. Tuy nhiên, cả tuần giá dầu vẫn giảm 2,2%, ghi nhận 8 tuần giảm liên tiếp.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex phiên cuối tuần tăng 5,94 cent, tương đương 4,6%, lên 1,3588 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 2/2015 tăng 4,23 cent (+2,6%) lên 1,6656 USD/gallon.

Hôm 16/1 IEA đã hạ dự báo tăng trưởng nguồn cung dầu tại các nước ngoài OPEC, theo đó nguồn cung sẽ giảm 350.000 thùng/ngày, đồng thời dự báo sản lượng giảm sẽ giúp nhu cầu đối với dầu OPEC tăng lên.

Trước đó, hôm thứ Năm 15/1 OPEC cũng hạ dự báo nhu cầu toàn cầu đối với dầu thô của Khối xuống 28,8 triệu thùng/ngày tuy sản lượng của Khối trong tháng 12/2014 đạt 30,2 triệu USD/thùng, tăng 140.000 thùng so với tháng 11. Mặc dù Libya giảm sản lượng 200.000 thùng trong tháng 12/2014 nhưng sản lượng của Iraq lại tăng 280.000 thùng.

Sản lượng dầu của Libya vẫn khá cao bất chấp bất ổn tại quốc gia này, theo hãng tư vấn nghiên cứu JBC Energy. Dựa vào số liệu tàu chở dầu, trung bình Libya xuất khẩu 200.000 thùng dầu/ngày, thấp hơn 1/3 so với mức đỉnh hồi tháng 10 và tháng 11/2014, theo JBC.

Tuy nhiên triển vọng giá dầu vẫn mờ mịt khi nguồn cung vẫn dồi dào. Trong một báo cáo phát đi ngày 15/1, OPEC dự báo nhu cầu dầu của khối này sẽ chỉ ở mức bình quân 28,8 triệu thùng/ngày – thấp nhất trong vòng 12 năm trở lại đây.

OPEC – khối các nước cung cấp khoảng 40% lượng dầu thô toàn cầu- đã bơm 30,2 triệu thùng dầu/ngày trong tháng 12/2014, tăng 140.000 thùng so với tháng trước đó, chủ yếu do tăng từ Iraq. Khối này cũng đưa ra dự báo thị phần trên thị trường dầu mỏ toàn cầu sẽ giảm từ mức 31,9% trong năm ngoái xuống 31,2% trong năm nay.

Trong năm ngoái, giá dầu đã giảm gần 50% - nhiều nhất kể từ đại khủng hoảng 2008, do nguồn cung dầu ở Mỹ tăng mạnh nhất trong hơn 3 thập kỷ còn OPEC kiên quyết giữ nguyên sản lượng. Đầu tuần này, Goldman Sachs và Societe Generale là hai trong số các ngân hàng đã giảm dự báo về giá dầu thời gian tới.

Còn ở Mỹ, một báo cáo từ Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ mới đây cho biết, sản lượng dầu đã lên tới 9,19 triệu thùng/ngày trong tuần đến ngày 9/1 vừa qua – cao nhất kể từ đầu năm 1983, khi cơ quan này bắt đầu tập hợp số liệu. Dự trữ dầu của Mỹ trong cùng thời kỳ tăng 5,39 triệu thùng lên 387,8 triệu thùng – mức tăng gấp hơn chục lần so với dự đoán của các chuyên gia.

Một cuộc khảo sát của Bloomberg với các nhà phân tích và thương nhân cho thấy giá dầu có nhiều khả năng giảm trong tuần tới. Cụ thể, trong số 40 người được hỏi thì có tới 21 người dự báo giá giảm, chiếm tỷ lệ 53%, và chỉ có 11 người dự đoán giá tăng.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tuần qua tăng mạnh nhất kể từ 2013 tăng 4,5%, do nhu cầu trú ẩn an toàn tăng,bất chấp USD tăng 0,5% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ - yếu tố thường hạn chế mức tăng của giá vàng.

Giá vàng giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York tăng 1% lên 1.276,9 USD/ounce sau khi tăng 2,5% trong phiên hôm thứ Năm 15/1.

Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR tăng mạnh nhất kể từ năm 2010. Hôm 16/1 lượng vàng nắm giữ của SPDR tăng 1,9% lên 730,89 tấn, mức tăng lớn nhất kể từ 25/5/2014. Tuần này, lượng vàng nắm giữ của Quỹ tăng 3,3%.

Tuy nhiên, nhu cầu vật chất có xu hướng giảm do giá vàng tăng làm giảm sức mua tại châu Á. Chệnh lệch giữa giá vàng nội địa Trung Quốc và quốc tế trên Sàn Vàng Thượng Hải giảm xuống 1-2 USD/ounce từ 3-4 USD/ounce trong phiên giao dịch hôm thứ Năm, cho thấy nhu cầu giảm.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 4,6% lên 17,65 USD/ounce, sau khi tăng 5,5% lên 17,81 USD/ounce, cao nhất kể từ 24/9/2014; giá bạch kim tăng 0,6% lên 1.261,8 USD/ounce trong khi giá palladium giảm 1,6% xuống 751 USD/ounce.

Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt giảm ở cả London và New York.

Cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 5,65 US cent/lb xuống 171 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 5,65 US cent/lb xuống 173,65 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 5,6 US cent/lb xuống 176,1 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 5,65 US cent/lb xuống 178,1 US cent/lb.

Trên thị trường London, cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 32 USD/tấn (-1,65%) xuống 1.941 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 28 USD/tấn (-1,42%) xuống 1.970 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 30 USD/tấn (-1,5%) xuống 1.997 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 30 USD/tấn (-1,48%) xuống 2.021 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay (17/1), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, trái ngược với phiên hôm qua, đảo chiều giảm 500.000 đồng/tấn xuống 39,8-40,6 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 28 USD/tấn từ 1.908 USD/tấn hôm qua xuống 1.880 USD/tấn.

Ước tính tồn kho cà phê tại Mỹ năm 2014 tăng 438.246 bao, tương đương 8,62%, so với năm 2013 dường như không hỗ trợ tâm lý trên thị trường. Hiện thị trường chủ yếu quan tâm đến tình hình thời tiết tại Brazil nhằm dự đoán tình hình mùa vụ tại nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới này.

Hiệp hội Cà phê Hạt Mỹ (GCA) cho biết, tồn kho tại các cảng của Mỹ trong tháng 12/2014 đạt 5.524.964 bao, giảm 169.190 bao so với tháng trước. Con số này không tính lượng hàng sẵn có trong kho của các hãng rang xay và trên đường trung chuyển, ước chừng 1 triệu bao. Trong khi đó, tiêu thụ của Mỹ và Canada đạt khoảng 490.000 bao/tuần.

Tồn kho cà phê tại Bắc Mỹ hiện đạt 6.524.964 bao, đủ dùng cho ít nhất 13,3 tuần, trước khi có nguồn cung cà phê vụ mới từ Mexico, Trung Mỹ, Colombia và Việt Nam.

Các nhà phân tích Brazil Safras & Mercado – đã ước tính sản lượng cà phê Brazil năm 2014 đạt 48,9 triệu bao –tính đến cuối tuần trước (9/1) khoảng 72% sản lượng cà phê vụ mới đã được bán, cao hơn so với 63% cùng kỳ vụ trước.

Somar Meteorologists tại Brazil hôm 15/1 dự báo thời tiết khô nóng tại miền đông nam Brazil sẽ diễn ra trong những ngày cuối tuần và 2-3 ngày đầu tuần tới, nhưng sẽ có mưa trong nửa cuối tuần sau và kéo dài đến hết tháng. Tuy nhiên, lương mưa trong tháng 1 năm nay sẽ thấp hơn 48% so với mức trung bình.  

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá 10/1
Giá 17/1
17/1 so với 10/1
17/1 so với 10/1 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
48,36
48,69
0,00
0,00%

Dầu Brent

USD/thùng
50,11
50,10
+1,90
+3,94%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
39.750,00
38.170,00
+970,00
+2,61%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
2,95
3,13
0,00
0,00%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
132,32
135,88
0,00
0,00%

Dầu đốt

US cent/gallon
170,30
166,56
0,00
0,00%

Dầu khí

USD/tấn
478,75
472,25
-0,75
-0,16%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
51.570,00
49.370,00
+730,00
+1,50%

Vàng New York

USD/ounce
1.216,10
1.276,90
0,00
0,00%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.641,00
4.813,00
+108,00
+2,30%

Bạc New York

USD/ounce
16,42
17,75
0,00
-0.39%

Bạc TOCOM

JPY/g
62,70
67,00
+3,10
+1.26%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,
1.233,31
1.267,13
+7,63
+0,61%

Palladium giao ngay

USD/t oz,
802,90
757,73
-9,05
-1,18%

Đồng New York

US cent/lb
275,45
261,70
0,00
0,00%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
6.090,00
5.715,00
+85,00
+1,51%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.810,00
1.845,00
+54,00
+3,02%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.156,00
2.097,50
+34,50
+1,67%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
19.550,00
19.375,00
+20,00
+0,10%
Ngô
US cent/bushel
400,25
387,00
+7,00
+1,84%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
563,75
532,75
0,00
0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel
303,25
288,75
+7,00
+2,48%

Gạo thô

USD/cwt
11,55
11,33
-0,01
-0,04%

Đậu tương

US cent/bushel
1.052,25
991,75
+0,75
+0,08%

Khô đậu tương

USD/tấn
349,10
326,20
-0,50
-0,15%

Dầu đậu tương

US cent/lb
33,68
33,39
+0,40
+1,21%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
452,20
450,60
-0,80
-0,18%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.968,00
2.942,00
-35,00
-1,18%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
180,05
171,00
-5,65
-3,20%

Đường thô

US cent/lb
14,91
15,33
-0,02
-0,13%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
142,40
146,50
-0,15
-0,10%
Bông
US cent/lb
60,76
59,23
-0,26
-0,44%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
319,00
311,90
0,00
0,00%

Cao su TOCOM

JPY/kg
208,20
192,70
-0,30
-0,16%

Ethanol CME

USD/gallon
1,48
1,35
+0,05
+3,44%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg