(VINANET) – Trên thế giới tuần kết thúc vào ngày 17/4 (đóng cửa giao dịch lúc rạng sáng 18/4 giờ VN), thị trường dầu mỏ biến động mạnh nhất, giá tăng trong gần suốt tuần bởi đồn đoán sản lượng dầu Mỹ đạt đỉnh. Vàng ít biến động trong tuần, bởi chưa rõ liệu Fed có nâng lãi suất trong nửa cuối năm nay hay không.

Trên thị trường năng lượng phiên cuối tuần, giá dầu rời khỏi đỉnh 2015 sau khi giới kinh doanh nhận thấy chưa đủ cơ sở để nhận định thị trường dầu đang dần trở lại cân bằng hơn.

Chốt phiên cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 5/2015 trên sàn Nymex New York giảm 97 cent, tương đương 1,7%, xuống 55,74 USD/thùng, đứt mạch 6 phiên tăng liên tiếp. Dầu Brent kỳ hạn giao tháng 6/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 53 cent, tương đương 0,8%, xuống 63,45 USD/thùng.

Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá dầu WTI vẫn tăng được 7,9%, còn dầu Brent tăng 7,6%.

Giá dầu tăng hồi đầu tuần chủ yếu do một loạt số liệu cho thấy nguồn cung dầu đang chậm lại trong khi nhu cầu tăng lên, giúp tái cân bằng thị trường.

Các nhà quản lý tiền tệ, kể cả quỹ phòng hộ và quỹ lương hưu, đã tăng thêm 2.893 vị thế vụ ròng - đặt cược vào giá dầu tăng - trong khi giảm 16.291 hợp đồng đặt cượt vào giá dầu giảm. Vị thế mua ròng trong tuần tăng 9% lên 231.556 hợp đồng, cao nhất kể từ 5/8/2014.

Tuy giá dầu tăng tuần thứ 5 liên tiếp, song giới phân tích cảnh báo rằng đà tăng này đang dựa vào cơ sở giả tạo về sản lượng dầu. Các nhà sản xuất dầu Mỹ sẽ không ngừng hoạt động các giàn khoan với tốc độ nhanh như trước kia và nhiều nước sản xuất dầu trên thế giới đang cố gắng bơm thêm dầu ra thị trường.

Số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ tiếp tục giảm, nhưng chưa đủ nhanh để củng cố lòng tin của giới đầu tư trong phiên cuối tuần 17/4. Số liệu mới nhất của Baker Hughes cho thấy, số giàn khoan trong tuần chỉ giảm 26 giàn xuống 734 giàn.

Theo giới phân tích, hiện có rất ít định hướng rõ ràng về giá dầu. Hiện vẫn còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá dầu như tình trạng bán tháo cổ phiếu, khủng hoảng nợ Hy Lạp, xung đột tại Trung Đông và diễn biến của USD.

Nhiều nhà phân tích cảnh báo rằng không nên “quá lạc quan”. Nhiều nước sản xuất dầu đang có dự định tăng nguồn cung - xóa tan dấu hiệu cho thấy nhu cầu đang tăng, Bank of America Merrill Lynch cho biết.

Bank of America Merrill Lynch cũng dự đoán giá dầu WTI sẽ ở mức 41 USD/thùng vào cuối quý II năm nay trong khi giá dầu Brent ở mức 48 USD/thùng.

Giá xăng RBOB giao tháng 5/2015 trên sàn Nymex giảm 0,5 cent xuống 1.93 USD/gallon, trong khi, giá dầu diesel giao tháng 5/2015 giảm 2,6 cent, tương đương 1,3%, xuống 1.882 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng vững ở mức trên 1.200 USD/ounce sau khi Mỹ công bố giá tiêu dùng trong tháng 3 tăng, khiến cho dự báo Fed sẽ trì hoãn việc nâng lãi suất trở nên thiếu cơ sở.

Giá vàng giao ngay lúc 14h36 giờ New York tăng 0,6% lên 1.204,1 USD/ounce, giảm so với 1.207,6 USD/ounce đầu phiên và ghi nhận mức giảm 0,3% cho cả tuần. Giá vàng giao tháng 6/2015 trên sàn Comex New York tăng 5,1 USD, tương đương 0,4%, lên 1.203, 1 USD/ounce.

USD đảo chiều tăng sau số liệu lạm phát của Mỹ.

Giá vàng rất nhạy cảm với chinh sách tiền tệ của Mỹ do việc nâng lãi suất sẽ khiến USD tăng giá, làm tăng chi phí cơ hội nắm giữ vàng - tài sản phi lãi suất.

Nhu cầu vàng vật chất của Trung Quốc, thị trường tiêu thụ vàng lớn thứ 2 thế giới, vẫn ảm đạm. Chênh lệch giá vàng nội địa và quốc tế trên Sàn Giao dịch Vàng Thượng Hải chỉ tăng nhẹ, trong khi chênh lệch giá tại Ấn Độ giảm khi giá vàng ổn định ở 1.200 8 USD/ounce.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,2% lên 16,22 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,8% lên 1.165,49 USD/ounce và giá palladium tăng 0,7% lên 781 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt giảm trên các thị trường. Loại arabica tại New York kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 0,9 US cent/lb xuống 138,7 US cent/lb; Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 0,1 US cent/lb xuống 141,4 US cent/lb; Kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 0,05 US cent/lb xuống 144 US cent/lb; và Kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá giảm 0,1 US cent/lb xuống 147,55 US cent/lb.

Trên sàn London, loại robusta kỳ hạn giao 5/2015 giá tăng 3 USD/tấn lên 1.799 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 1 USD/tấn xuống 1.826 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm USD/tấn xuống 1.850 USD/tấn; trong khi Kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá không đổi ở 1.866 USD/tấn.

Chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta (Ice7/Liffe7) tăng nhẹ lên 58,58 US cent/lb so với 58,64 US cent/lb hôm qua.
Cà phê Việt Nam sáng nay giá vững so với phiên trước đó. Cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, sau khi tăng nhẹ trong phiên hôm qua, sáng nay đi ngang và giao dịch ở 38,1-39 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 3 USD/tấn từ 1.816 USD/tấn hôm qua lên 1.819 USD/tấn.

Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới ngày càng tăng cao, đồng thời các chuyên gia dự báo nguồn cung cà phê của thế giới vẫn hạn chế trong năm 2015, ngành cà phê Việt Nam đang tự tin hướng đến ngôi vị chi phối thị trường cà phê thế giới trong những năm tới.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 11/4
Giá 18/4
Giá 18/4 so với 17/4
Giá 18/4 so với 17/4 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
51,64
55,74
-0,97
-1,71%
Dầu Brent
USD/thùng
57,87
63,45
-0,53
-0,83%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
44.470,00
47.170,00
-10,00
-0,02%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,51
2,63
-0,05
-1,86%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
180,73
192,99
-0,55
-0,28%
Dầu đốt
US cent/gallon
176,61
188,24
-2,56
-1,34%
Dầu khí
USD/tấn
538,75
579,00
+5,75
+1,00%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
57.500,00
60.680,00
+80,00
+0,13%
Vàng New York
USD/ounce
1.204,60
1.203,10
+5,10
+0,43%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.654,00
4.589,00
+3,00
+0,07%
Bạc New York
USD/ounce
16,38
16,23
-0,06
-0,34%
Bạc TOCOM
JPY/g
63,50
62,10
-0,40
-0,64%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.172,63
1.171,50
+11,75
+1,01%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
777,50
786,55
+5,50
+0,70%
Đồng New York
US cent/lb
273,40
277,00
+0,25
+0,09%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.039,00
6.060,00
0,00
0,00%
 Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.765,00
1.815,00
-5,00
-0,27%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.210,00
2.213,00
-15,50
-0,70%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
16.700,00
14.850,00
-145,00
-0,97%
Ngô
US cent/bushel
377,00
386,75
+3,50
+0,91%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
524,00
489,25
-1,50
-0,31%
Lúa mạch
US cent/bushel
266,50
269,00
+5,50
+2,09%
Gạo thô
USD/cwt
10,26
9,91
-0,06
-0,60%
Đậu tương
US cent/bushel
951,50
971,50
+2,50
+0,26%
Khô đậu tương
USD/tấn
309,60
314,70
+2,50
+0,80%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,09
31,73
-0,24
-0,75%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
454,00
451,20
+6,90
+1,55%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.783,00
2.841,00
-33,00
-1,15%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
137,85
141,40
-0,10
-0,07%
Đường thô
US cent/lb
12,83
13,24
-0,19
-1,41%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
112,65
115,05
+0,55
+0,48%
Bông
US cent/lb
65,40
63,29
-1,29
-2,00%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
266,80
248,00
-7,30
-2,86%
Cao su TOCOM
JPY/kg
197,00
198,50
-0,10
-0,05%
Ethanol CME
USD/gallon
1,57
1,62
+0,03
+1,57%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg