(VINANET) – Phiên giao dịch cuối tuần 19/9 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 20/9 giờ VN), chỉ số giá 22 nguyên liệu thô Bloomberg Commodity Index tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm, bởi nhiều hàng hóa đồng loạt giảm giá, trong đó chỉ số 6 kim loại cơ bản trên sàn London chạm mức thấp nhất 22 tuần.

Việc chỉ số dollar index tiếp tục tăng tuần thứ 10 liên tiếp – kỳ dài nhất kết từ tháng 3/1967 – đã gây áp lực giảm giá lên hầu hết các thị trường hàng hóa tính theo USD.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York giảm 66 cent (-0,7%) xuống 92,41 USD/thùng. Tuy nhiên, dầu Brent phiên cuối tuần nhích nhẹ với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 10 tại London tăng 69 cent (+0,7%) lên 98,39 USD/thùng.
USD lên mức gần cao nhất trong nhiều năm so với các đồng tiền trong giỏ tiền tệ trước khả năng lãi suất của Mỹ sẽ tăng sớm hơn dự kiến. Dầu được giao dịch bằng USD, do vậy, đồng USD mạnh lên khiến dầu trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua sử dụng các đồng tiền khác.

Mặc dù phiên cuối tuần giảm giá, song tính chung trong cả tuần, giá dầu WTI vẫn tăng nhẹ 0,2%. Dầu Brent cũng tăng nhẹ trong tuần qua bởi có dấu hiệu cho thấy nguồn cung có thể giảm.

Chênh lệch giữa giá dầu Mỹ và dầu Brent đã nới rộng lên 5,98 USD/thùng, cao nhất kể từ 10/9.

Giá dầu Brent đã giảm 15 USD/thùng kể từ mức cao nhất hồi giữa tháng 6 trước những lo ngại nguồn cung dồi dào sẽ gây áp lực lên nhu cầu. Bạo lực tại Iraq, Ukraine và nhiều nơi khác không gây gián đoạn nguồn cung như một số thương nhân lo ngại.

Mỏ dầu lớn nhất Libya phải tạm dừng sau khi đạn pháo bắn trúng bồn chứa. Sản lượng dầu của Libya giảm từ 870.000 thùng/ngày hôm Chủ nhật 13/9 xuống dưới 700.000 thùng/ngày hôm thứ Tư 17/9.

Hơn nữa, OPEC tuần này đã đánh tín hiệu sẽ giảm sản lượng trong cuộc họp diễn ra vào tháng 11 tới đây. Trong bối cảnh sản lượng dầu của Mỹ bùng nổ, sản lượng thấp hơn từ OPEC sẽ hỗ trợ giá dầu.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 10 tăng 5,04 cent (+2%) lên 2,6114 USD/gallon. Tuần này, giá tăng 3,7%. Giá dầu diesel giao tháng 10 tăng 0,43 cent lên 2,7116 USD/gallon. Cả tuần, giá giảm 0,9%.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần cũng giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1 khi USD tăng trước đồn đoán lãi suất của Mỹ có thể tăng sớm hơn dự kiến.
Giá vàng giao tháng 12 trên sàn COMEX New York giảm 7,8 USD xuống 1.219,1 USD/ounce với khối lượng giao dịch thấp hơn 45% so với mức trung bình 30 ngày. Tuy nhiên vàng giao ngay giá tăng nhẹ 0,90 USD lên 1.227 USD/ounce.

Giá vàng đã giảm 3 tuần liên tiếp khi Fed nâng ước tính đối với lãi suất chủ chốt thậm chí khi các nhà hoạch định chính sách khẳng định duy trì chi phí đi vay ở mức cận 0 trong một thời gian đáng kể. Chỉ số Standard & Poor’s 500 tăng lên kỷ lục khi cổ phiếu của Alibaba Group Holdings Ltd tăng trong ngày đầu tiên giao dịch. USD tăng so với các đồng tiền trong giỏ tiền tệ, ghi nhận 10 tuần tăng liên tục, đợt tăng dài nhất kể từ tháng 3/1967.

Sự lạc quan về kinh tế đã làm giảm tính hấp dẫn của vàng như tài sản trú ẩn an toàn. Mặc dù hoạt động kinh tế của Mỹ trong tháng 8 tăng thấp hơn dự tính, nhưng vẫn cho thấy kinh tế Mỹ tiếp tục đà tăng trưởng.

Lượng vàng nắm giữ của các quỹ ETF vàng giảm xuống mức thấp nhất 5. Tuần này, lượng vàng nắm giữ của các quỹ ETF giảm 0,5% xuống 1.706,47 tấn, thấp nhất kể từ tháng 10/2009.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giảm 3,4% xuống 17,84 USD/ounce. Giá bạch kim giảm 0,9% xuống 1.331 USD/ounce và giá palladium giảm 2,1% xuống 809,46 USD/ounce.

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng kỳ hạn giảm phiên thứ 3 liên tiếp cũng bởi USD tăng giá làm giảm nhu cầu nguyên liệu như một tài sản thay thế.

Đồng kỳ hạn tháng 12 tại New York giảm 0,1% xuống 3,0915 USD/lb. Giá đã mất 9% từ đầu năm đến nay. Đồng kỳ hạn 3 tháng tại London cũng giảm 0,1% xuống 6.835 USD/tấn. Đây là tuần thứ 4 giá đồng liên tiếp giảm – kỳ dìa nhất kể từ 28/6/2013.

Trên sàn London, giá chì, kẽm tăng, song giá nhôm và nickel giảm. Riêng thiếc không thay đổi.

Trên thị trường nông sản, giá cacao vọt lên mức cao kỷ lục 3 năm bởi dự báo dịch Ebola có thể lan sang Tây Phi, khu vực trồng cacao lớn nhất thế giới.

Cacao kỳ hạn giao tháng 12 tăng 1,9% lên 2.105 Bảng (3.434 USD)/tấn trên sàn London, sau khi có lúc chạm 2.108 Bảng, mức cao nhất kể từ 29/3/2011.

Giá cà phê thế giới đồng loạt sụt giảm trên các thị trường, trong bối cảnh giao dịch trầm lắng vào thời điểm thông thường các thị trường tiêu thụ tăng mua vào chuẩn bị rang xay cho mùa đông.

Cà phê arabica tại New York kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 3,2 US cent/lb xuống 178 US cent/lb, kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 3,15 US cent/lb xuống 182,2 US cent/lb, kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 3,15 US cent/lb xuống 184,65 US cent/lb, và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 3,15 US cent/lb xuống 186,25 US cent/lb.

Cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 9 tại London giá giảm 36 USD, tương đương -1,83%, xuống 1.930 USD/tấn, trong khi kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 21 USD/tấn, tương đương -1,07%, xuống 1.940 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 21 USD/tấn, tương đương -1,06, xuống 1.953 USD/tấn, và kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 20 USD xuống 1.966 USD/tấn.

Xu hướng giảm giá trên thế giới tác động tới thị trường Việt Nam. Sáng nay (20/9), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, đã có phiên giảm thứ 3 liên tiếp khi giảm 400.000 đồng/tấn xuống 37,4-38,7 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 21 USD từ 1.931 USD/tấn hôm qua xuống 1.910 USD/tấn.

Các dự đoán về sản lượng cà phê Indonesia năm nay thấp hơn được chứng minh bằng lượng cà phê xuất khẩu 6 tháng đầu năm do Bank Indonesia công bố khi chỉ đạt 2,62 triệu bao, giảm 27,65% so với cùng kỳ năm 2013.

 
 
Giá 20/9
So với 19/9
So với 19/9 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
92,41
-0,66
-0,71%
Dầu Brent
USD/thùng
98,39
+0,69
+0,71%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
67.020,00
+80,00
+0,12%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,84
-0,07
-1,87%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
261,14
+5,04
+1,97%
Dầu đốt
US cent/gallon
271,66
+0,43
+0,16%
Dầu khí
USD/tấn
823,25
-0,75
-0,09%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
81.920,00
+140,00
+0,17%
Vàng New York
USD/ounce
1.216,60
-10,30
-0,84%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.261,00
-32,00
-0,75%
Bạc New York
USD/ounce
17,84
-0,67
-3,63%
Bạc TOCOM
JPY/g
63,20
-1,80
-2,77%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.336,38
-10,18
-0,76%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
810,88
-18,02
-2,17%
Đồng New York
US cent/lb
309,15
-0,25
-0,08%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.835,00
-7,50
-0,11%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.976,00
-5,50
-0,28%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.275,00
+10,00
+0,44%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
21.250,00
0,00
0,00%
Ngô
US cent/bushel
331,50
-6,75
-2,00%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
474,50
-14,00
-2,87%
Lúa mạch
US cent/bushel
337,25
-5,00
-1,46%
Gạo thô
USD/cwt
12,70
+0,08
+0,63%
Đậu tương
US cent/bushel
957,00
-14,50
-1,49%
Khô đậu tương
USD/tấn
315,40
-4,90
-1,53%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,58
-0,29
-0,88%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
397,50
-8,90
-2,19%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.259,00
+67,00
+2,10%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
178,00
-3,20
-1,77%
Đường thô
US cent/lb
15,80
-0,15
-0,94%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
142,75
-0,55
-0,38%
Bông
US cent/lb
64,39
-0,66
-1,01%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
329,00
-0,90
-0,27%
Cao su TOCOM
JPY/kg
190,00
+0,80
+0,42%
Ethanol CME
USD/gallon
1,61
-0,01
-0,80%

T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg