(VINANET) – Trên thị trường thế giới tuần tới 22/5 (đóng cửa vào rạng sáng 23/5 giờ VN), giá nhiều mặt hàng chủ chốt như dầu, vàng và cà phê đều giảm do USD mạnh lên vào những phiên cuối tuần và một số lý do khác.

USD tăng 1% so với giỏ tiền tệ trong phiên cuối tuần, bởi số liệu cho thấy Chỉ số Giá Tiêu dùng Mỹ (CPI) trong tháng 4/2015 tăng 0,1%, trong khi CPI lõi, không tính thực phẩm và năng lượng, tăng 0,3%, mức tăng lớn nhất kể từ tháng 1/2013, cộng thêm khẳng định của các nhà hoạch định chính sách Mỹ về quyết tâm nâng lãi suất trong năm nay.

Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vừa cho biết vẫn sẽ nâng lãi suất trong năm nay dù cho Mỹ có đang trong giai đoạn đầu phục hồi tăng trưởng kinh tế. 

Chủ tịch Fed Janet Yellen, cho hay số liệu kinh tế Mỹ quý đầu năm 2015 không ngăn cản Fed khỏi việc thực hiện kế hoạch nâng lãi suất trong năm nay. 

Với phát biểu của bà Janet Yellen, các chuyên gia và nhà đầu tư dự báo Fed có khả năng đẩy nhanh hơn thời gian bắt đầu tăng lãi suất, có thể vào tháng 10 thay vì tháng 12/2015 như dự kiến.

Tỷ lệ lãi suất các khoản vay nóng giữa các ngân hàng thương mại đã được Mỹ duy trì cận mức 0 suốt từ tháng 12.2008. Hai tiêu chí để Fed tăng lãi suất vẫn là lạm phát duy trì ở mức 2% trong trung hạn và thị trường lao động có sự cải thiện.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần đảo chiều giảm sau khi USD mạnh lên và vẫn còn đó nỗi lo dư cung.

Đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex New York giảm 1 USD, tương đương 1,6%, xuống 59,72 USD/thùng. Tính chung trong tuần, giá giảm 1,4%, đứt mạch tăng 3 tuần liên tiếp. Dầu Brent kỳ hạn giao tháng 7/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 1,17 USD, tương đương 1,8%, xuống 65,37 USD/thùng. Tính chung trong tuần giá cũng giảm 2,2%.

USD tăng trở lại sau khi Bộ Lao động Mỹ cho biết, giá tiêu dùng tháng 4 tăng tháng thứ 3 liên tiếp. Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD và 16 đồng tiền, tăng 0,7%.

Bên cạnh đó, số liệu cho thấy, số giàn khoan đang hoạt động tại Mỹ tuần qua chỉ giảm 1 giàn, cho thấy đà giảm số giàn khoan có thể sắp kết thúc. Một số công ty cho biết có thể tăng hoạt động nếu giá dầu ổn định ở trên 60 USD/thùng - làm trầm trọng thêm tình trạng dư cung toàn cầu.

Một số nhà phân tích cho rằng giá dầu tăng thời gian qua chủ yếu do USD suy yếu. Trong khi đó, tình trạng dư cung vẫn tiếp tục khiến giới đầu tư lo ngại và một số nhà phân tích cảnh báo rằng đà tăng của giá dầu trong thời gian qua là không bền vững và giá có thể lại giảm vào cuối năm nay.

Về các sản phẩm khác trên thị trường thế giới, giá xăng RBOB giao tháng 6/2015 trên sàn Nymex giảm 2,85 cent, tương ứng 1,4%, xuống 2,0539USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 6/2015 giảm 3,34 cent, hoặc 1,7%, xuống 1,9525 USD/gallon.

Trên thị trường trong nước, ngày 20/5 giá xăng được điều chỉnh tăng 1.200 đồng/lít. Các sản phẩm dầu cũng được điều chỉnh tăng giá lần này, với dầu mazút và diesel tăng 500 đồng/lít, dầu hỏa giảm 64 đồng/kg. Với quyết định này, sau khi tăng giá, xăng A92 bán lẻ có giá bán 20.436 đồng/lít; dầu diesel 16.383 đồng/lít; dầu mazút 13.153 đồng/lít và dầu hỏa 15.751 đồng/kg.

Như vậy, trong 2 kỳ liên tiếp gần đây, giá xăng liên tục được điều chỉnh tăng, nguyên nhân bởi giá dầu cơ sở trên thị trường thế giới tăng trong chu kỳ 15 ngày.

10 lần điều chỉnh giá xăng dầu trong nước gần nhất và giá dầu Brent biển Bắc (tại thời điểm tương đương) (Nguồn: Vietnamplus)


Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần giảm cũng bởi USD tăng, với vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.204,72 USD/ounce, tính chung trong tuần giá giảm 1,6%, ghi nhận tuần giảm giá đầu tiên trong 4 tuần qua. Giá vàng giao tháng 6/2015 trên sàn Comex New York giảm 10 cent xuống 1.204 USD/ounce.

Sức mua vàng tại châu Á tuần này chậm lại khi giới đầu tư Trung Quốc tập trung vào chứng khoán. Nhu cầu tại Ấn Độ vẫn yếu và chưa có khả năng tăng khi mùa cưới kết thúc.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,6% xuống 17,02 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,9%  xuống 1.141,74 USD/ounce và giá palladium giảm 0,7% xuống 793,5 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê phiên cuối tuần tiếp tục giảm bởi triển vọng nguồn cung khả quan.

Trên sàn New York, arabica kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 1,5 US cent/lb xuống 126,95 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 1,45 US cent/lb xuống 129,8 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá giảm 1,45 US cent/lb xuống 133,65 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 3/2016 giá giảm 1,45 US cent/lb xuống 137,35 US cent/lb.

Trên sàn London, robusta kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 56 USD/tấn xuống 1.626 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 56 USD/tấn xuống 1.651 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá giảm 56 USD/tấn xuống 1.672 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 1/2016 giá giảm 56 USD/tấn xuống 1.692 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng thế giới. Sáng nay Sáng nay 23/5, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục giảm mạnh 1,2 triệu đồng/tấn xuống 34,6-35,1 triệu đồng/tấn, ghi nhận phiên giảm thứ 4 liên tiếp. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB giảm 66 USD từ 1.742 USD/tấn xuống 1.676 USD/tấn.

Volcafe - chi nhánh của hãng thương mại ED&F Man Holdings Ltd trụ sở tại Thụy Sĩ - đã nâng dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2014-2015 thêm 1,6 triệu bao lên 143,8 triệu bao, đồng thời hạ dự báo thiếu hụt cà phê thế giới niên vụ 2014-2015 xuống 6,4 triệu bao, giảm 2,5 triệu bao so với dự báo trước đó.

Nhu cầu cà phê thế giới trong 2 niên vụ dự báo giảm khoảng 1,9 triệu bao vì tuy tiêu thụ cà phê Arabica tăng, song tiêu thụ Robusta lại được dự báo giảm.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 16/5
Giá 23/5
Giá 23/5 so với 22/5
Giá 23/5 so với 22/5 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
59,93
59,72
-1,00
-1,65%
Dầu Brent
USD/thùng
66,81
65,37
-1,17
-1,76%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
49.280,00
49.050,00
-270,00
-0,55%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,02
2,89
-0,06
-2,10%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
205,68
205,39
-2,85
-1,37%
Dầu đốt
US cent/gallon
200,48
195,25
-3,34
-1,68%
Dầu khí
USD/tấn
611,00
599,50
-10,00
-1,64%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
62.990,00
62.460,00
-230,00
-0,37%
Vàng New York
USD/ounce
1.225,30
1.204,90
-0,20
-0,02%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.683,00
4.697,00
+18,00
+0,38%
Bạc New York
USD/ounce
17,56
17,05
-0,08
-0,47%
Bạc TOCOM
JPY/g
67,30
66,40
-0,40
-0,60%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.167,93
1.146,25
-8,10
-0,70%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
794,00
789,98
+9,59
+1,23%
Đồng New York
US cent/lb
292,45
281,10
-3,75
-1,32%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.415,00
6.161,50
-90,50
-1,45%

 Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.853,00
1.768,00
-5,00
-0,28%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.291,00
2.178,00
-12,00
-0,55%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
15.775,00
15.775,00
-25,00
-0,16%
Ngô
US cent/bushel
365,50
360,00
-5,00
-1,37%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
511,00
515,25
-6,75
-1,29%
Lúa mạch
US cent/bushel
248,50
242,50
-1,75
-0,72%
Gạo thô
USD/cwt
9,58
9,43
-0,19
-1,92%
Đậu tương
US cent/bushel
953,25
924,25
-14,25
-1,52%
Khô đậu tương
USD/tấn
303,30
304,20
+0,10
+0,03%
Dầu đậu tương
US cent/lb
33,07
31,64
-0,61
-1,89%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
455,30
463,20
+0,60
+0,13%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.133,00
3.153,00
-10,00
-0,32%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
138,25
126,95
-1,50
-1,17%
Đường thô
US cent/lb
12,89
12,31
-0,18
-1,44%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
111,45
118,55
+1,20
+1,02%
Bông
US cent/lb
66,84
63,30
-0,43
-0,67%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
252,20
273,80
+4,20
+1,56%
Cao su TOCOM
JPY/kg
220,00
220,00
+0,80
+0,36%
Ethanol CME
USD/gallon
1,68
1,56
-0,00
-0,13%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg