(VINANET) – Phiên giao dịch cuối tuần 30/1 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 31/1 giờ VN), giá dầu thô đảo chiều tăng mạnh. Vàng tiếp tục tăng giá nhưng cà phê vẫn giảm.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô phiên giao dịch cuối tháng bất ngờ tăng mạnh gần 4 USD/thùng sau một thời gian dài giữ kỷ lục thấp nhất trong vòng 6 năm qua, nguyên nhân bởi các nhà giao dịch nhận định việc nhiều nhà đầu tư lớn tuyên bố cắt giảm các khoản đầu tư ngắn hạn.

Tại New York, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 3/2015 chốt phiên ở mức 48,24 USD/thùng, tăng 3,71 USD/thùng. Trên sàn giao dịch London (Anh), giá dầu thô Brent Biển Bắc giao tháng 3/2015 tăng 3,46 USD lên 52,99 USD/thùng.

Ngày 30/1, Chevron Corp, tập đoàn dầu khí lớn thứ hai của Mỹ, đã cắt giảm khoản chi 5 tỷ USD cho hoạt động khai thác và phát triển trong năm 2015, giảm 13% so với năm trước.

Ngày 29/1, tập đoàn ConocoPhillips của Mỹ cũng thông báo thêm một đợt cắt giảm mạnh ngân sách cho hoạt động khai thác, trong khi "đại gia" dầu lửa Anh-Hà Lan Royal Dutch Shell công bố kế hoạch cắt giảm ngân sách hơn 15 tỷ USD trong 3 năm tới sau khi lợi nhuận hàng năm giảm mạnh.

Trong khi đó, số giàn khoan của Tập đoàn dầu khí lớn thứ 3 của Mỹ Baker Hughes đã giảm tới 129 đơn vị trong tuần qua, xuống còn 1,937 giàn khoan.

Ngoài ra, có nhiều dấu hiệu cho thấy sẽ có sự cắt giảm lao động lớn trong ngành công nghiệp dầu mỏ, báo trước thị trường này sẽ khó khăn trong trung hạn cũng là một lý do khiến giá dầu tăng.

Thời gian qua giá dầu liên tục giảm mạnh. Hiện dầu WTI vẫn thấp hơn 60% so với 7 tháng trước đây, do sản lượng dầu tại Mỹ, Iraq và Libya tăng mạnh trong khi nhu cầu yếu ớt trong bối ảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu ảm đạm. Giới phân tích cho rằng dư cung dầu toàn cầu hiện đạt ít nhất 1,5 triệu thùng/ngày.

Tuy kinh tế toàn cầu vẫn ảm đạm, song OPEC cho biết, sản lượng dầu của khối trong tháng 12/2014 đạt 30,2 triệu thùng/ngày, tăng 140.000 thùng so với tháng 11/2014.

Mất cân bằng cung cầu toàn cầu đã khiến thị trường dầu liên tục tuột dốc với giá dầu Brent và WTI giảm 7 tháng liên tục, đợt giảm dài nhất kể từ tháng 1/2009.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 2/2015 trên sàn Nyme phiên cuối tháng tăng 6,16 cent (+4,6%) lên 1,4153 USD/gallon. Trong khi đó, giá dầu diesel giao tháng 2/2015 tăng 6,79 cent (4,2%) lên 1,6863 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng hồi phục phiên cuối tháng bởi số liệu kinh tế Mỹ quý IV không cao như dự báo, làm tăng nhu cầu mua vàng thay thế USD.

Giá dầu tăng vào cuối phiên 30/1 cũng hỗ trợ giá vàng khi một số nhà đầu tư lo ngại về khả năng lạm phát đã tăng cường mua kim loại quý này. Giới thương nhân cho rằng giá vàng sẽ vẫn tăng trong ngắn  hạn do lo ngại bất ổn tai châu Âu kể cả khi USD tăng giá.

Giá vàng giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York tăng 23,9 USD, tương đương 2%, lên 1.278,5 USD/ounce. Giá vàng giao ngay ghi nhận mức tăng 8% trong tháng 1/2015, cao nhất kể từ tháng 1/2012, chủ yếu sau quyết định bỏ trần tỷ giá cặp tiền tệ franc/euro của Ngân hàng trung ương Thụy Sĩ (SNB). Bên cạnh đó, ngân hàng trung ương châu Âu cũng cho biết sẽ bơm thêm hàng tỷ USD vào nền kinh tế.

Giá vàng tăng sau khi Bộ Thương mại Mỹ công bố GDP của Mỹ trong quý IV/2014 tăng trưởng 2,6%/năm, chỉ bằng ½ so với mức tăng 5% của quý III/2014.

Theo giới phân tích, đồn đoán Fed nâng lãi suất trong năm nay, lần đầu tiên trong gần 1 thập kỷ, vẫn là lo ngại dài hạn đối với giá vàng.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,7% lên 17,20 USD/ounce, giá bạch kim tăng 1,2% lên 1.235,25 USD/ounce, trong khi giá palladium giảm 0,1% xuống 771,52 USD/ounce.

Trên thị trường cà phê, giá tiếp tục xu hướng giảm trong phiên cuối tháng.

Giá arabica kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn New York kết thúc tuần ở mức 1,9 US cent/lb lên 161,9 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 1,9 US cent/lb lên 164,65 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 1,9 US cent/lb lên 167,35 US cent/lb; và Kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 1,9 US cent/lb lên 169,85 US cent/lb.

Các vùng trồng cà phê arabica chủ chốt phía đông nam Brazil tiếp tục có mưa và dự báo mưa không chỉ tiếp tục trong suốt tháng 2.

Cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn London phiên cuối tuần giá giảm 19 USD/tấn xuống 1.925 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 18 USD/tấn xuống 1.954 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 17 USD/tấn xuống 1.979 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 14 USD/tấn xuống 2.003 USD/tấn.

Theo số liệu của Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), xuất khẩu cà phê robusta tháng 12/2014 đạt 3,62 triệu tấn, tăng 27% so với tháng 11, mặc dù một số nhà quan sát vẫn giữ thái độ thận trọng về số liệu này nhất là khi số liệu xuất khẩu cà phê robusta của Việt Nam cao hơn so với số liệu của Hải quan Việt Nam.

ICO cho biết xuất khẩu cà phê toàn cầu tháng 12/2014 đạt 8,85 triệu bao, tăng hơn 1 triệu bao so với tháng 11/2014. Điều này cho thấy sản lượng cà phê Brazil giảm không đáng kể.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay (31/1), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, nối tiếp phiên hôm qua, tiếp tục giảm 300.000 đồng/tấn xuống 39-39,5 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 19 USD/tấn từ 1.854 USD/tấn hôm qua xuống 1.835 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá 24/1
Giá 31/1
Giá 31/1 so với 24/1
Giá 31/1 so với 24/1 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
45,59
48,24
+3,71
+8,33%

Dầu Brent

USD/thùng
48,79
52,99
+3,86
+7,86%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
37.830,00
39.530,00
+1.710,00
+4,52%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
2,99
2,69
-0,03
-1,03%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
134,79
147,50
-0,38
-0,26%

Dầu đốt

US cent/gallon
164,67
170,08
+9,61
+5,99%

Dầu khí

USD/tấn
477,00
477,00
+4,75
+1,01%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
49.140,00
50.420,00
+1.040,00
+2,11%

Vàng New York

USD/ounce
1.292,60
1.278,50
+23,90
+1,90%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.888,00
4.817,00
+47,00
+0,99%

Bạc New York

USD/ounce
18,30
17,21
+0,44
+2,59%

Bạc TOCOM

JPY/g
69,00
64,90
+0,80
+1,25%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,
1.268,75
1.241,56
+19,93
+1,63%

Palladium giao ngay

USD/t oz,
775,63
772,35
-1,40
-0,18%

Đồng New York

US cent/lb
250,15
249,45
+4,30
+1,75%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
5.519,50
5.495,00
+100,00
+1,85%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.831,00
1.864,00
+45,00
+2,47%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.093,00
2.125,00
+35,00
+1,67%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
19.475,00
19.025,00
-150,00
-0,78%
Ngô
US cent/bushel
386,75
370,00
-1,50
-0,40%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
530,00
502,75
-5,00
-0,98%

Lúa mạch

US cent/bushel
290,50
275,50
-7,00
-2,48%

Gạo thô

USD/cwt
11,01
10,57
-0,29
-2,67%

Đậu tương

US cent/bushel
972,75
961,00
-7,25
-0,75%

Khô đậu tương

USD/tấn
331,50
329,90
-8,00
-2,37%

Dầu đậu tương

US cent/lb
31,60
30,00
+0,46
+1,56%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
461,50
453,40
+4,30
+0,96%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.755,00
2.693,00
+7,00
+0,26%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
162,45
161,90
+1,90
+1,19%

Đường thô

US cent/lb
15,17
14,79
-0,06
-0,40%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
147,25
140,00
+5,55
+4,13%
Bông
US cent/lb
57,30
59,36
-0,21
-0,35%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
311,50
321,80
0,00
0,00%

Cao su TOCOM

JPY/kg
201,60
196,60
+0,50
+0,25%

Ethanol CME

USD/gallon
1,45
1,39
+0,01
+0,51%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg