(VINANET) – Phiên giao dịch cuối tuần 5/12 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 6/12 giờ VN), giá những hàng hóa chủ chốt giảm xuống thấp kỷ lục trong vòng nhiều năm.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm do lo ngại về dư cung toàn cầu tiếp tục gây áp lực lên thị trường.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 1/2015 trên sàn New York phiên cuối tuần giảm 97 cent xuống 65,84 USD/thùng, thấp nhất kể từ 29/7/2009. Giá WTI đã giảm 0,5% trong tuần này, 33% trong năm nay và giảm 9 phiên trong 10 phiên vừa qua. Khối lượng giao dịch thấp hơn 20% so với mức trung bình 100 ngày.

Giá dầu Brent giao tháng 1/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 57 cent (-0,8%) xuống 69,07 USD/thùng, thấp nhất kể từ 7/10/2009. Giá dầu đã giảm 1,5% trong tuần này và 38% trong năm nay.

Giá dầu kỳ hạn đã liên tục lao dốc những tháng gần đây khi tăng trưởng nguồn cung luôn vượt nhu cầu.

Hôm 4/12 Arab Saudi đã hạ giá bán dầu cho khách hàng Mỹ, cho thấy Vương quốc này quyết tâm giữ thị phần trong bối cảnh giá dầu ở mức thấp thay vì giảm sản lượng để đẩy giá lên.

Giám đốc năng lượng Ed Kevelson của công ty môi giới Newedge USA thuộc Société Générale, nhận định giá dầu có thể tiếp tục chịu áp lực cho đến khi giới thương nhân nhận thấy có dấu hiệu cho thấy nguồn cung giảm.

Trong khi đó, số liệu việc làm mới nhất của Mỹ bi quan gây lo ngại triển vọng nhu cầu dầu bấp bênh. Theo báo cáo của Bộ Lao động Mỹ, tháng 11/2014 các doanh nghiệp Mỹ đã tuyển dụng thêm 321.000 nhân viên, ghi nhận tháng tuyển dụng mạnh nhất kể từ tháng 1/2012. Trong khi đó, các nhà kinh tế học trong khảo sát của Wall Street Journal dự báo tăng 230.000 việc làm.

Thị trường lao động cải thiện và thu nhập tăng sẽ thúc đẩy chi tiêu tiêu dùng cũng như tăng nhu cầu sản phẩm hóa dầu, nhất là xăng khi ngày càng nhiều hơn người lao động lái xe đi làm.

Do giá giảm thấp kéo dài, nhiều hãng sản xuất đang xem xét lại kế hoạch sản xuất. Ngày 5/12, Statoil AS A của Na Uy cho biết sẽ dừng hoạt động 3 giếng dầu trong thời gian dài hơn kế hoạch trước đây.

Đối với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex giảm 2,14 cent (-1,2%) xuống 1,7734 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 9/10/2009. Giá giảm 3% cho cả tuần.

Giá dầu diesel giao tháng 1/2015 giảm 0,99 cent (-0,5%) xuống 2,1078 USD/gallon, thấp nhất kể từ 22/9/2010. Giá giảm 2,5% cho cả tuần.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm phiên cuối tuần do ảnh hưởng từ số liệu việc làm của Mỹ, nhưng là số liệu tích cực của tháng 11, dấy lên lo ngại Fed sẽ sớm nâng lãi suất. Lãi suất cao hơn sẽ làm tăng chi phí cơ hội nắm giữ vàng và đẩy USD lên cao, bất lợi cho giá vàng do vàng được định giá bằng đồng bạc xanh.

Giá vàng giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York giảm 17,3 USD xuống 1.190,4 USD/ounce.

Theo báo cáo của Bộ Lao động Mỹ, tháng 11/2014 các doanh nghiệp Mỹ đã tuyển dụng thêm 321.000 nhân viên, ghi nhận tháng tuyển dụng mạnh nhất trong gần 3 năm qua, cao hơn nhiều so với mức tăng 243.000 tháng 10 và dự báo của các chuyên gia.

Số liệu tích cực về việc làm phi nông nghiệp tháng 11 cũng khiến USD tăng giá, lên cao nhất nhiều năm qua và khiến giới thương nhân tăng đồn đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào đầu năm 2015.

Tuy nhiên, tính cả tuần, giá vàng giao ngay vẫn tăng 2% sau đợt mua bù thiếu đã khiến giá tăng 4% hôm thứ Hai 1/12, mức tăng hàng ngày lớn nhất trong hơn 1 năm qua.

Theo giới thương nhân, điều này có thể thu hút hoạt động mua ngắn hạn trong tuần tới, trong khi một số khác cho rằng thị trường sẽ ổn định ở mức hiện tại.

Trên thị trường vàng vật chất, sức mua của Trung Quốc vẫn ổn định với giá chênh lệch giữa giá vàng nội địa và quốc tế hôm thứ Sáu 5/12 không đổi ở 1-2 USD.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,9% xuống 16,26 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,9% xuống 1.218,42 USD/ounce, trong khi giá palladium tăng 0,7% lên 799,91 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê cũng giảm mạnh. Arabica trên sàn New York giảm xuống mức thấp chưa từng có trong vòng 4 tháng rưỡi trước khi hồi phục nhẹ vào cuối phiên, do hoạt động bán tháo mạnh mẽ sau khi giá giảm tuần thứ 3 liên tiếp.

Trên sàn New York, arabica kỳ hạn giao tháng 12 giảm 2,45 US cent/lb xuống 179,1 US cent/lb; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 2,35 US cent/lb xuống 180,1 US cent/lb; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 2,35 US cent/lb xuống 182,65 US cent/lb; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 2,35 US cent/lb xuống 185 US cent/lb.

Trên sàn London, robusta kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 10 USD/tấn xuống 2.038 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 7 USD/tấn xuống 2.053 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 7 USD/tấn xuống 2.066 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 4 USD/tấn xuống 2.081 USD/tấn.

Giá cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng thế giới, bất chấp dự báo sản lượng giảm. Sáng nay giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB giảm 7 USD/tấn từ 2.000 USD/tấn hôm qua xuống 1.993 USD/tấn.

Theo Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn hán kéo dài, dự kiến niên vụ 2014-2015, sản lượng cà phê Việt Nam sẽ giảm khoảng 20% so với niên vụ trước. Theo đó, mục tiêu xuất khẩu cà phê trong niên vụ mới là 1,4 triệu tấn, với kim ngạch trên 3 tỷ USD, giảm 200.000 tấn so với niên vụ 2013-2014.

Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, xuất khẩu cà phê toàn vụ 2013-2014 đạt 1,66 triệu tấn, trị giá 3,4 tỷ USD. So với niên vụ trước, lượng xuất khẩu đã tăng 17,2%, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 12,5%. Việt Nam vẫn là quốc gia đứng thứ 2 trên thế giới về sản lượng xuất khẩu cà phê, chỉ sau Brazil.

Trữ lượng lưu kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm 4/12 giảm 13.610 bao xuống 2.322.870 bao, trong khi số bao chờ đánh giá, phân hạng tăng 15.025 bao lên 18.550 bao.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 29/11
Giá 6/12
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
66,15
65,84
-0,97
-1,45%
Dầu Brent
USD/thùng
70,15
69,07
-0,57
-0,82%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
52.430,00
53.200,00
+560,00
+1,06%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,09
3,80
+0,15
+4,19%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
182,76
177,34
-2,14
-1,19%
Dầu đốt
US cent/gallon
216,12
210,78
-0,99
-0,47%
Dầu khí
USD/tấn
654,25
617,25
-3,75
-0,60%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
63.630,00
64.000,00
+450,00
+0,71%
Vàng New York
USD/ounce
1.175,50
1.190,40
-17,30
-1,43%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.439,00
4.645,00
+6,00
+0,13%
Bạc New York
USD/ounce
15,56
16,26
-0,32
-1,91%
Bạc TOCOM
JPY/g
59,20
63,70
+0,10
+0,16%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.200,88
1.223,00
-14,00
-1,13%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
809,45
801,88
+3,57
+0,45%
Đồng New York
US cent/lb
284,60
290,25
-1,20
-0,41%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.351,00
6.451,00
-19,00
-0,29%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
2.004,00
1.982,00
-12,50
-0,63%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.215,00
2.237,00
-1,00
-0,04%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
20.250,00
20.200,00
-205,00
-1,00%
Ngô
US cent/bushel
388,75
395,00
+5,25
+1,35%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
578,50
594,00
+4,25
+0,72%
Lúa mạch
US cent/bushel
306,50
312,75
+0,75
+0,24%
Gạo thô
USD/cwt
12,34
12,07
-0,06
-0,45%
Đậu tương
US cent/bushel
1.016,00
1.036,00
+25,50
+2,52%
Khô đậu tương
USD/tấn
366,30
366,40
+8,60
+2,40%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,29
32,08
+0,38
+1,20%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
425,30
420,90
+10,00
+2,43%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.843,00
2.890,00
+25,00
+0,87%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
187,45
180,10
-2,35
-1,29%
Đường thô
US cent/lb
15,59
15,14
-0,07
-0,46%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
148,85
146,00
-0,15
-0,10%
Bông
US cent/lb
60,08
59,64
-0,78
-1,29%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
327,70
339,00
+5,50
+1,65%
Cao su TOCOM
JPY/kg
201,50
199,80
+2,40
+1,22%
Ethanol CME
USD/gallon
1,74
1,73
-0,04
-2,32%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg