(VINANET) – Phiên cuối tuần 5/6 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 6/6 giờ VN), giá dầu tăng sau kết quả cuộc họp của OPEC. Tuy nhiên tính chung trong tuần, giá dầu giảm, cùng xu hướng với vàng. Cà phê trái lại giảm trong phiên cuối tuần nhưng tăng trong cả tuần.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần tăng sau khi OPEC quyết định giữ nguyên sản lượng.

Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex New York tăng 1,13 USD, tương đương 1,9%, lên 59,13 USD/thùng. Dầu Brent, chuẩn toàn cầu, giao tháng 7/2015 trên sàn ICE Futures Europe London tăng 1,28 USD, tương ứng 2,1%, lên 63,31 USD/thùng.

Giá dầu trong phiên 5/6 cũng biến động tăng giảm liên tục khi USD mạnh lên và tin OPEC quyết định giữ nguyên mục tiêu sản lượng ở 30 triệu thùng/ngày trong 6 tháng tiếp theo trong phiên họp ngày 5/6 tại Vienna.

USD tăng mạnh 1,5% so với các đồng tiền khác sau số liệu việc làm tích cực của Mỹ.

Ngày 5/6, tại Hội nghị cấp bộ trưởng các nước thành viên OPEC diễn ra tại thủ đô Viên, Áo Tổ chức, các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã quyết định giữ nguyên sản lượng hiện nay ở mức 30 triệu thùng/ ngày trong vòng 6 tháng tới.

Theo các nước thành viên OPEC, mức giá 60-65 USD/thùng dầu hiện nay đã cải thiện rất nhiều so với trước đây. Các quan chức OPEC nhận định giá dầu sẽ đạt 70 USD/thùng và ổn định ở mức này vào đầu năm sau.

Tuy tăng trong phiên cuối tuần song giá dầu vẫn giảm trong của tuần khi USD mạnh lên và thị trường tiếp tục chịu áp lực do cung vượt cầu. Tính chung cả tuần, giá dầu WTI giảm 1,9% trong khi dầu Brent giảm 3,4%.

Giá dầu hiện vẫn thấp hơn 40% so với mức đỉnh hồi tháng 6 năm ngoái do dư cung. Giới thương nhân đang nghiên cứu kỹ lưỡng số liệu cung-cầu của Mỹ và thị trường thế giới nhằm tìm manh mối về thời điểm thị trường có thể tái cân bằng nhờ sản lượng giảm hoặc tiêu thụ tăng.

Giới quan sát thị trường vẫn có ý kiến trái chiều về hướng đi của giá dầu trong ngắn hạn. Một số cho rằng giá sẽ tiếp tục tăng khi nhu cầu tăng và sản lượng dầu đá phiến của Mỹ giảm sau khi các công ty dầu mỏ cắt giảm đầu tư và chi phí. Một số khác lại nghĩ rằng thị trường vẫn trong tình trạng cung vượt cầu và giá sẽ lại giảm.

Số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ trong tuần kết thúc vào 5/6 giảm 4 xuống 642 giàn, ghi nhận tuần thứ 26 giảm liên tiếp tuy tốc độ giảm đã chậm lại, theo số liệu của Baker Hughes.

Mặc dù số giàn khoan đã giảm 60% so với mức đỉnh hồi tháng 10 năm ngoái, nhưng sản lượng dầu của Mỹ vẫn ổn định ở mức kỷ lục nhiều thập kỷ qua.

Hãng tư vấn Wood Mackenzie dự đoán sản lượng dầu của Mỹ có thể tăng thêm 700.000 thùng/ngày trong năm 2015, thấp hơn so với mức tăng 1 triệu thùng/ngày trong năm 2013 và 2014.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex tăng 4,94 cent, tương ứng 2,5%, lên 2.03 USD/gallon. Cả tuần giá giảm 1,6%.

Giá dầu diesel giao tháng 7/2015 tăng 2,57 cent, hoặc 1,4%, lên 1,8696 USD/gallon. Cả tuần giá giảm 4,1%.

Giá khí gas thiên nhiên hóa lỏng (LNG) trên thị trường châu Á, kỳ hạn giao tháng 7, tuần này tương đối ổn định do sản lượng giảm ở một số nhà máy xuất khẩu, mặc dù nhu cầu trên toàn cầu nhìn chung vẫn yếu.

LNG giao ngay trên thị trường châu Á tuần này ở mức 7,70 USD/mBtu, tăng nhẹ so với 7,60 USD tuần trước.

Peru LNG chỉ xuất khẩu 2 chuyến hàng trong tháng 5, so với 5 chuyến hồi tháng 5 năm ngoái.

Trinidad cũng giảm xuất khẩu khí từ 2 trong số 3 nhà máy hóa lỏng trong giai đoạn kéo dài vài tháng. Có tin đồn nhà máy Sakhalin của Nga có thể sắp vào mùa bảo dưỡng. Xuất khẩu từ Yemen cũng bị ảnh hưởng bởi xung đột leo thang.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 11 tuần sau khi Mỹ công bố tháng 5 nền kinh tế số 1 thế giới này tạo thêm được 280.000 việc làm mới, mức tăng lớn nhất kể từ tháng 12/2014 và cao hơn so với 225.000 việc dự đoán của các nhà kinh tế học trong khảo sát Reuters. Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 5,5% từ 5,4% trong tháng 4. Thông tin này làm tăng triển vọng nâng lãi suất trong năm nay.
Đóng cửa phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay giảm 1,2% xuống 1.162,35 USD/ounce, thấp nhất kể từ 19/3/2015 và giảm 0,5% xuống 1.170,66 USD/ounce. Cả tuần giá giảm 1,6%, ghi nhận tuần thứ 3 giảm liên tiếp và là tuần giảm giá mạnh nhất kể từ 24/4. Giá vàng giao tháng 8/2015 trên sàn Comex New York giảm 7,1 USD, tương đương 0,6%, xuống 1.168,1 USD/ounce.

Kinh tế Mỹ tăng trưởng trì trệ trong quý I vừa qua đã khiến thị trường nghi ngờ liệu Fed có nâng lãi suất trong năm nay hay không nhưng số liệu kinh tế tích cực trong tuần này có thể giúp Fed duy trì quan điểm nâng lãi suất vào tháng 9 tới.

Chủ tịch Fed New York William Dudley dự doán Fed sẽ nâng lãi suất vào cuối năm nay nhưng chỉ khi kinh tế Mỹ tiếp tục đà tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp giảm.

Giới đầu tư cũng đang theo dõi tình hình Hy Lạp sau khi nước này hoãn thanh toán cho IMF khoản nợ đến hạn hôm 5/6.

Giao dịch trên thị trường vật chất vẫn u ám và chênh lệch giữa giá vàng nội địa và quốc tế tại các trung tâm giao dịch ở châu Á gần như không đổi trong những tuần qua.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,1% xuống 16,04 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,5% xuống 1.090 USD/ounce và giá palladium giảm 0,3% xuống 750 USD/ounce.

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng vững trong phiên cuối tuần do tồn trữ giảm cộng với ảnh hưởng từ đồng USD mạnh lên, bù lại cho những lo ngại nhu cầu ở Trung Quốc dwjbaos giảm theo mùa.

Dự trữ đồng tại London (LME) giảm xuống 315.125 tấn, mức thấp nhất kể từ đầu tháng 3.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê đảo chiều giảm trong phiên cuối tuần do USD mạnh lên. Trên sàn New York, arabica kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 0,6 US cent/lb xuống 135,1 US cent/lb, ghi nhận phiên giảm đầu tiên trong 8 phiên vừa qua; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 0,65 US cent/lb xuống 137,4 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá giảm 0,55 US cent/lb xuống 140,9 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 3/2016 giá giảm 0,55 US cent/lb xuống 144,35 US cent/lb.

Trên sàn London, robusta kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 10 USD/tấn xuống 1.726 USD/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần thì hợp đồng này vẫn tăng 6%. Với các kỳ hạn khác, robusta kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 7 USD/tấn xuống 1.745 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá giảm 6 USD/tấn xuống 1.765 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 1/2016 giá giảm 6 USD/tấn xuống 1.784 USD/tấn.

Giá cà phê Việt Nam phiên cuối tuần giảm nhẹ theo xu hướng thế giới. Sáng nay 6/6, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 100.000 đồng/tấn xuống 36,7-37,1 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 10 từ 1.786 USD/tấn xuống 1.776 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 30/5
Giá 6/6
Giá 6/6 so với 30/5
Giá 6/6 so với 30/5 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
60,30
59,13
+1,13
+1,95%
Dầu Brent
USD/thùng
65,56
63,31
+1,28
+2,06%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
49.940,00
49.550,00
+1.140,00
+2,35%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,64
2,59
-0,04
-1,37%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
206,27
203,00
+4,94
+2,49%
Dầu đốt
US cent/gallon
194,97
186,96
+2,57
+1,39%
Dầu khí
USD/tấn
593,50
568,00
-0,50
-0,09%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
63.750,00
63.910,00
+1.180,00
+1,88%
Vàng New York
USD/ounce
1.189,80
1.168,10
-7,10
-0,60%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.735,00
4.715,00
+13,00
+0,28%
Bạc New York
USD/ounce
16,70
15,98
-0,12
-0,74%
Bạc TOCOM
JPY/g
66,80
64,90
--
--
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.112,37
1.096,38
-3,62
-0,33%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
777,35
753,25
-2,87
-0,38%
Đồng New York
US cent/lb
272,80
269,25
+0,55
+0,20%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.015,00
5.937,00
+22,00
+0,37%

 Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.740,00
1.750,00
+7,00
+0,40%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.188,00
2.130,00
-12,00
-0,56%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
15.600,00
15.300,00
-150,00
-0,97%
Ngô
US cent/bushel
351,50
360,50
-3,00
-0,83%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
477,00
517,00
-6,75
-1,29%
Lúa mạch
US cent/bushel
234,00
258,75
+4,75
+1,87%
Gạo thô
USD/cwt
9,51
9,81
-0,12
-1,21%
Đậu tương
US cent/bushel
934,00
937,75
-8,75
-0,92%
Khô đậu tương
USD/tấn
305,70
304,90
-0,80
-0,26%
Dầu đậu tương
US cent/lb
33,33
34,78
+0,25
+0,72%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
472,80
495,50
+0,80
+0,16%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.085,00
3.116,00
+1,00
+0,03%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
126,15
135,10
-0,60
-0,44%
Đường thô
US cent/lb
11,98
12,05
-0,07
-0,58%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
114,25
116,70
+2,80
+2,46%
Bông
US cent/lb
64,35
64,01
-1,11
-1,70%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
--
--
--
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
274,10
291,20
+7,70
+2,72%
Cao su TOCOM
JPY/kg
239,60
240,00
-0,40
-0,17%
Ethanol CME
USD/gallon
1,52
1,55
-0,01
-0,45%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg