(VINANET) – Các thị trường hàng hóa hầu hết tăng vào phiên kết thúc tuần, 19-7 (rạng sáng 20/7 giờ VN) với dầu, vàng và đồng tăng góp phần đắc lực đẩy chỉ số giá CRB tăng tuần thứ 3 liên tiếp.

Một số thị trường nông sản đi ngược chiều. Arabica giảm giá gần 4%, mạnh nhất trong vòng một tháng, bởi các nhà đầu tư bán ra mạnh khi cơ quan dự báo thời tiết nhận định tình hình sương giá ở Brazil sẽ không xấu như dự đoán bán đầu.

Chỉ số 19 hàng hóa nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng 0,1% phiên cuối tuần và tăng gần 1,5% trong tuần, được hỗ trợ bởi giá dầu thô Mỹ tăng mạnh – thành tố chính trong CRB.

Đây là tuần thứ 3 liên tiếp CRB tăng. Chỉ số này đã tăng gần 6% từ đầu tháng 7 tới nay, mức tăng khả quan nhất kể từ tháng 10/2011.

Hợp đồng dầu thô Mỹ kỳ hạn tháng 8 đạt kỷ lục cao 16 tháng, 109,32 USD/thùng lúc đầu phiên 19/7, và kết thúc tuần ở 108,05 USD, tăng 1%. Tính chung trong tuần, giá tăng 2,2%.

Dầu thô Mỹ lần đầu tiên trong vòng 33 tháng vượt giá dầu Brent, do những dấu hiệu cho thấy nhu cầu mạnh từ các nhà máy lọc dầu của Mỹ. Dầu Brent biển Bắc tại châu Âu tăng 63 US cent hay 0,6% đạt 108,07 USD/thùng. Chênh lệch giá dầu Brent với dầu WTI là 20 cent/thùng.

Moody's nâng triển vọng tín nhiệm Mỹ từ tiêu cực lên ổn định và giữ nguyên xếp hạng Aaa. Điều này hỗ trợ tâm lý nhà đầu tư, tăng nhu cầu tiêu thụ dầu thô của nền kinh tế lớn nhất thế giới này.
Nguồn cung dầu thô Mỹ giảm 27,1 triệu thùng dầu/ngày trong vòng 3 tuần kết thúc ngày 12/7, giảm mạnh nhất kể từ 1982. Dự trữ tại cảng Cushing, Oklahoma, cảng trữ dầu lớn nhất mới giảm 882.000 thùng xuống còn 46,1 triệu thùng. Cảng này chuyên phân phối dầu thô WTI giao dịch kỳ hạn.
Giá dầu thô tăng cũng nhờ USD yếu đi, hôm qua USD giảm 0,3% so với euro.

Giá vàng tăng tuần thứ 2 liên tiếp sau khi nhiều nhà đầu tư hào hứng bởi lời đảm bảo của chủ tịch Fed rằng họ sẽ rất thận trọng khi cân nhắc rút lại chương trình kích thích kinh tế, cộng thêm yếu tố đồng USD yếu và thị trường chứng khoán Mỹ quay đầu rời khỏi mức cao kỷ lục.

Vàng giao ngay giá quanh mức 1.295 USD/ounce, tăng 0,8% trong cả phiên cuối tuần và cả tuần.

Vàng kỳ hạn tháng 8 giá 1.292,90 USD, tăng 0,7%.

Tuần trước đó, giá vàng cũng tăng tới 5,4% sau khi ông Bernanke cho biết, nền kinh tế Mỹ vẫn cần kích thích khi lạm phát còn thấp và thất nghiệp cao.

Hai ngày điều trần trước Quốc hội Mỹ tuần này, chủ tịch Fed Ben Bernanke tiếp tục nhắc đến việc sẽ giảm quy mô kích thích kinh tế vào cuối năm và ngưng hẳn vào giữa năm 2014. Ông tuy nhiên còn để ngỏ khả năng sẽ thay đổi ý định này, tùy thuộc vào thể trạng của nền kinh tế.

Dẫu đã có tín hiệu tốt hơn từ Fed song giới phân tích vẫn tỏ ra e dè về triển vọng giá vàng trong ngắn hạn. Frank McGhee đến từ công ty môi giới Integrated Broking Services cho biết nếu như thị trường chứng khoán cứ lập hết kỷ lục này đến kỷ lục khác và có dấu hiệu về lãi suất gia tăng thì giá vàng sẽ đối mặt với nguy cơ rất rớt nhanh xuống dưới 1.100 USD/ounce.

Trong năm nay, giá vàng đã giảm hơn 20% vì lo ngại Fed sẽ rút chương trình mua tài sản trị giá 85 tỷ USD mỗi tháng.

Cùng nhịp hồi phục của vàng, nguồn vàng chảy khỏi quỹ SPDR Gold Trust tuần này cũng đã hạn chế hơn với lượng bán ra 6,31 tấn, so với 22,9 tấn của tuần trước. Từ đầu năm tới nay, SPDR đã bán 419 tấn vàng, là nguyên nhân quan trọng khiến cho nhà đầu tư mất đi niềm tin ở vàng.

Quỹ tín thác vàng SPDR Gold Trust tiếp tục bán ra 2,7 tấn vàng hôm 19/7, ghi nhận phiên bán ra thứ tư liên tiếp.

Kể từ đầu năm nay, quỹ này bán ra tổng cộng hơn 418 tấn vàng do giá vàng lao dốc, gấp hơn 4 lần tổng lượng mua vào năm ngoái. Lượng nắm giữ của SPDR Gold Trust hiện giảm còn 932,46 tấn, trị giá khoảng 38,8 tỷ USD, thấp nhất kể từ tháng 2/2009.

Trên sàn Comex, giá đống giao kỳ hạn tháng 9 tăng 0,4% lên 2,144 USD/thùng. Tuy nhiên, tính chung tuần này, giá đồng giảm 0,7%.

Trên sàn LME, giá đồng giao sau 3 tháng cũng tăng 0,4% lên 6.934,5 USD/tấn, tương đương 3,15 USD/pound.

Ngân hàng trung ương Trung Quốc mới cho biết sẽ bỏ lãi suất sàn cho vay của các ngân hàng. Đây là động thái cải cách hệ thông tài chính, hỗ trợ sản xuất trong bối cảnh kinh tế chậm lại, tạo tâm lý khả quan cho giới đầu tư. Giá đồng năm nay giảm tới 14% do kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lai.

Ông Michael Smith, chủ tịch hãng T&K Future & OPtion tại Florida, Mỹ cho biết trước đó đã có nhiều tin xấu cho nền kinh tế Trung Quốc, việc thả nổi lãi suất cho vay giúp thị trường lạc quan. Ông tin rằng chính phủ nước này đã xem xét các gói kích thích kinh tế một cách tích cực. Trung Quốc thường điều khiển được thị trường đồng quốc tế

Giá lúa mỳ phục hồi trở lại nhờ Trung Quốc tăng nhập khẩu ngũ cốc từ Mỹ. Trên sàn Chicago, giá lúa mỳ giao tháng 9 tăng 0,6% chốt phiên tại 6,645 USD/bushel, phiên tăng đầu tiên kể từ 11/7. Giá lúa mỳ giảm tổng cộng 15% từ đầu năm đến nay do dư báo sản lượng thu hoạch toàn cầu sẽ đạt kỷ lục.

Giá lúa mỳ tăng sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu nước này bán 120.000 tấn lúa mỳ vụ đông loại mềm, đỏ cho Trung Quốc. Doanh số bán lúa mỳ Mỹ từ đầu tháng 6 đến nay tăng 44% so với cùng kỳ đạt 11,7 triệu tấn.

Giá đậu tương giao tháng 11 cũng tăng 0,7% lên 12,74 USD/bushel. Giá đậu tương giảm 9,6% từ đầu năm đến nay.

Giá ngô giao tháng 12, thời điểm sau thu hoạch phiên hôm qua không đổi ở mức 5,0075 USD/bushel. Giá ngô giảm 28% từ đầu năm đến nay sau khi chính phủ Mỹ dự báo sản lượng thu hoạch nội địa sẽ tăng 29% so với năm ngoái đạt 13,95 tỷ bushel.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

So với đầu năm (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

108,38

 0,34

 0,3%

 18,0%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

 108,32

-0,38

-0,4%

 -2,5%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

 3,789

 -0,023

-0,6%

 13,1%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

 1292,90

 8,70

 0,7%

-22,8%

Vàng Mỹ

 USD/ounce

 1294,95

10,46

 0,8%

-22,7%

Đồng Mỹ

US cent/lb

3,15

 0,01

 0,2%

-13,8%

Đồng LME

USD/tấn

6915,00

10,00

 0,1%

-12,8%

Dollar

 

82,584

 -0,239

-0,3%

7,6%

 CRB

 

290,923

0,412

 0,1%

 -1,4%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

 544,00

 3,00

 0,6%

-22,1%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

1490,75

21,50

 1,5%

5,1%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

 664,50

 4,00

 0,6%

-14,6%

Cà phê arabica

 US cent/lb

122,70

-4,85

-3,8%

-14,7%

Cacao Mỹ

USD/tấn

 2364,00

17,00

 0,7%

5,7%

Đường thô

US cent/lb

 16,29

 0,11

 0,7%

-16,5%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

19,460

 19,266

 1,5%

-35,6%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

 1431,20

16,40

 0,0%

 -7,0%

Palladium Mỹ

USD/ounce

749,75

 2,25

 0,3%

6,6%

(T.H – Reuters)