(VINANET) - Phiên giao dịch 16/7 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 17/7 giờ VN), giá dầu thô tăng nhẹ trở lại sau báo cáo về tồn kho của Mỹ và số liệu kinh tế Trung Quốc.

Giá dầu ngọt, nhẹ giao tháng 8 tăng 1,2% lên 101,20 USD/thùng trên sàn Nymex, ghi nhận mức tăng lớn nhất kể từ ngày 12/6. Trong phiên giao dịch ngày 15/7, giá dầu đã giảm xuống ngưỡng 100 USD/thùng.

Giá dầu Brent giao tháng 8 lại tăng nhẹ lên 107,35 USD/thùng trong ngày giao dịch cuối cùng đối với hợp đồng kỳ hạn tháng 8.

Giá dầu tăng ngay trong phiên đầu ngày 16/7 sau khi Trung Quốc cho biết, kinh tế tăng trưởng vượt dự báo trong quý II. Đồng thời, giao tranh xảy ra tại sân bay của thủ đô Tripoli, Libya đã dấy lên lo ngại về khả năng xuất khẩu dầu của nước này sau khi hoạt động sản xuất được nối lại.

Tuy nhiên, phải đợi đến khi Mỹ công bố báo cáo tồn kho dầu thì giá mặt hàng này mới tăng ổn định. Theo báo cáo của Ủy bang thông tin năng lượng, dự trữ dầu nội địa giảm 7,5 triệu thùng, cao hơn nhiều so với ước tính 2,6 triệu thùng của các chuyên gia. Các nhà máy lọc dầu cũng hoạt động với công suất lớn hơn và tồn kho xăng tăng ít hơn so với dự báo.

Quý II, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn so với dự báo và tốc độ tăng trưởng của quý I là 7,4%. Trung Quốc là nước tiêu thu dầu lớn thứ 2 thế giới sau Mỹ nên bất cứ chỉ số nào chứng tỏ sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ là tín hiệu tốt đối với thị trường dầu toàn cầu.

Tập đoàn dầu khí quốc gia của Libya cho biết, sản lượng dầu đã tăng lên cao nhất trong 5 tháng với 600.000 thùng/ngày. Tuy nhiên, giao tranh lại xảy ra ngày tại sân bay của thủ đô Tripoli đã dấy lên nghi ngờ về tình hình ổn định chính trị cũng như khả năng xuất khẩu dầu của nước này.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng trở lại từ mức thấp nhất 3 tuần khi nhập khẩu vàng của Ấn Độ tăng 65% trong tháng 6.

Giá vàng giao tháng 8 tăng 2,7 USD (0,2%) lên 1.299,8 USD/ounce với khối lượng giao dịch thấp hơn 20% so với mức trung bình 30 ngày. Hôm qua, giá vàng chạm 1.292,6 USD/ounce, thấp nhất kể từ 19/6.

Bộ Thương mại Ấn Độ cho biết, nhập khẩu vàng của nước này tháng 6 tăng lên 3,12 tỷ USD từ 1,89 tỷ USD hồi đầu năm.

Một yếu tố khác giúp giá vàng tăng là số liệu cho thấy sản lượng công nghiệp của Mỹ quý II tăng với tốc độ nhanh nhất trong 2 năm qua, cho thấy nền kinh tế lớn nhất thế giới đang có được đà để thúc đẩy tăng trưởng trong suốt năm nay.

Ngoài ra giá vàng tăng sau khi chủ tịch Fed Dallas Richard Fisher hôm thứ 4 đã đánh tín hiệu cho biết ngân hàng trung ương “có thể” bắt đầu dần tăng lãi suất vào đầu năm tới.

Giá vàng lần đầu tiên tuột mốc 1.300 USD/ounce trong phiên giao dịch hôm 15/7 sau khi báo cáo của Fed cho thấy bảng cân đối của Fed sẽ đạt 4,5 nghìn tỷ USD khi kết thúc chương trình mua trái phiếu vào tháng 10.

Tuy nhiên, viễn cảnh kinh tế Mỹ và mối lo ngại rằng Fed có thể tăng lãi suất vẫn kiềm chế sự gia tăng đối với tài sản trú ẩn an toàn.

Chủ tịch Fed Janet Yellen đã báo cáo với Ủy ban Dịch vụ tài chính Hạ viện rằng Fed chưa đạt được mục tiêu tạo việc làm đầy đủ và giá cả ổn định trong khi khẳng định rằng “việc điều chỉnh chính sách tiền tệ ở mức độ cao vẫn phù hợp”.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
16/7
17
+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
100,30
101,54
+1,14
+0,34%

Dầu Brent

USD/thùng
105,90
107,35
+1,45
+0,17%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
66.640,00
66.650,00
-140,00
-0,21%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
4,10
4,11
-0,01
-0,32%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

290,55
288,08
-0,17
-0,06%

Dầu đốt

US cent/gallon

285,61
285,93
+0,15
+0,05%

Dầu khí

USD/tấn
880,00
882,00
+0,50
+0,06%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
82.670,00
82.880,00
+130,00
+0,16%

Vàng New York

USD/ounce
1.297,20
1.300,10
+2,90
+0,02%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.245,00
4.252,00
+2,00
+0,05%
Bạc New York
USD/ounce
20,80
20,81
+0,03
+0,14%

Bạc TOCOM

JPY/g
68,00
68,00
+0,10
+0,15%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.484,69
1.486,63
+1,25
+0,08%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

868,48
874,60
+0,85
+0,10%

Đồng New York

US cent/lb

325,00
321,55
+0,10
+0,03%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
7.130,00
7.078,00
-52,00
-0,73%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.960,00
1.970,00
+10,00
+0,51%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.299,00
2.303,00
+4,00
+0,17%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
22.175,00
22.100,00
-75,00
-0,34%
Ngô

US cent/bushel

383,25
385,00
-1,75
-0,45%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

539,25
538,25
+0,25
+0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

331,00
334,75
+3,75
+1,13%

Gạo thô

USD/cwt
12,88
12,94
-0,05
-0,38%

Đậu tương

US cent/bushel
1.088,25
1.100,75
-1,25
-0,11%

Khô đậu tương

USD/tấn
348,70
357,00
+0,20
+0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

37,00
36,89
-0,10
-0,27%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
445,50
447,20
-3,10
-0,69%

Cacao Mỹ

USD/tấn
3.106,00
3.062,00
-44,00
-1,42%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
161,95
162,50
+0,55
+0,34%

Đường thô

US cent/lb

17,21
17,07
-0,14
-0,81%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

151,60
151,80
+0,20
+0,13%

Bông

US cent/lb

67,81
67,64
-0,11
-0,16%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

333,90
329,00
-2,00
-0,60%

Cao su TOCOM

JPY/kg
198,00
201,20
+1,80
+0,90%

Ethanol CME

USD/gallon
2,09
2,10
-0,00
-0,05%

T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg