(VINANET) – Giá dầu tiếp tục tăng trong phiên giao dịch 24/6 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 25/6 giờ VN) do bất ổn tại Iraq leo thang, và các thương nhân đánh cược rằng, sự chênh lệch giá này sẽ vẫn tăng mạnh trong thời gian tới.

Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tại New York giá tăng nhẹ 1,03 USD lên 106,75 USD/thùng, trong khi dầu Brent tại London tăng nhẹ 0,32 USD lên 114,22 USD/thùng.

Giá dầu Brent thường phản ứng rất mạnh mẽ trước những căng thẳng địa chính trị trong khi giá dầu chuẩn của Mỹ lại ít bị tổn thương nếu xảy ra biến động nguồn cung toàn cầu vì hoạt động sản xuất dầu tại Mỹ đang ở trong thời kỳ đỉnh cao và phần lớn dầu thô sản xuất nội địa không thể xuất khẩu dưới quy định hiện hành.

Cả hai loại hợp đồng dầu này từng giao dịch ở mức giá cao nhất 9 tháng trong tuần trước do lo ngại rằng, bất ổn tại Iraq có thể gây gián đoạn hoạt động sản xuất dầu của nước này. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại, khu vực sản xuất dầu chính tại nam Iraq vẫn chưa bị ảnh hưởng.

Ngày 24/6, tin tức cho biết, phiến quân Hồi giáo dòng Sunni đã chiếm giữ được toàn bộ nhà máy lọc dầu tại Baiji, phía Bắc thủ đô Baghdad. Nhà máy này cung cấp tới 1/3 sản lượng nhiên liệu tinh lọc cho Iraq.

Viện dầu mỏ Mỹ công bố dự trữ dầu nội địa cũng giảm1,2 triệu thùng, dự trữ xăng tăng 2,2 triệu thùng và tồn kho sản phẩm tinh chế, gồm dầu đốt nóng và diesel, giảm 253.000 thùng.

Thị trường Mỹ đang chờ đợi dữ liệu tồn kho dầu hàng tuần của Ủy ban thông tin năng lượng Mỹ vào ngày 25/6. Giới phân tích dự báo rằng, tuần trước, dự trữ dầu nội địa giảm1,2 triệu thùng, dự trữ xăng tăng 1,2 triệu thùng và tồn kho sản phẩm tinh chế, gồm dầu đốt nóng và diesel, tăng 800.000 thùng.

Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 7 tăng 0,6% lên 3,1258 USD/gallon và giá dầu diesel giao tháng 7 tăng 0,3% lên 3,0416 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng duy trì ở mức cao trên 1.300 USD/ounce.

Gần đây vàng có xu hướng tăng giá khi các nhà đầu tư rút khỏi thị trường chứng khoán sau khi số liệu Ifo của Đức về hoạt động kinh doanh giảm sâu hơn so với dự đoán trong tháng 6. Sau đó, giá vàng giảm nhẹ do số liệu tích cực về doanh số bán nhà mới xây và lòng tin tiêu dùng tốt hơn tại Mỹ.

Sự chú ý của các nhà đầu tư đối vào vàng đã tăng lên đáng kể trước tình hình bạo lực liên tục leo thang tại Iraq. Sự chú ý gia tăng này dường như được chứng minh với việc Quỹ đầu tư tín thác vàng lớn nhất thế giới SPDR đã mua gần 2,4 tấn vàng, tăng số lượng vàng nắm giữ lên mức kỷ lục 785,02 tấn - mức cao nhất kể từ ngày 16/6.

Với các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 20,86 USD/ounce, trước đó đã tăng lên 21,14 USD – mức tăng cao nhất trong 3 tháng qua. Giá bạch kim tăng 0,8% lên 1.463,3 USD/ounce trong khi giá palladium tăng 0,8% lên 825,75 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt giảm, với cà phê arabica tại New York kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm 0,54% xuống 174,15 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 9 giảm 0,65% xuống 176,25 cent/lb.

Cà phê robusta tại London cũng giảm khá mạnh, với kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm mạnh nhất 13 USD, tương đương 0,66% về 1.954 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 10 USD, tương đương 0,5% về 1.972 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng giá thế giới, vớicà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục giảm phiên thứ 2 giảm 200-300 nghìn đồng xuống 38,8-39,4 triệu đồng/tấn, cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB giảm 10 USD xuống 1.962USD/tấn.

Trong tuần này, các nhà xuất khẩu Việt Nam chào bán cà phê Robusta loại 2,5 phần trăm hạt đen vỡ với giá trừ lùi từ 10-20 USD/tấn với hợp đồng giao tháng 9, không thay đổi so với tuần trước. Tuy nhiên, khách hàng nước ngoài lại trả với giá trừ lùi lên đến 60 USD/tấn, làm cho giao dịch rất chậm, theo một thương nhân tại TPHCM. Trong khi đó, Indonesia lại có thể bán với giá trừ lùi từ 50-60 USD/tấn. Vì vậy, khách hàng muốn mua cà phê ở Indonesia hơn, Reuters đưa tin. Indonesia hiện đang thu hoạch cà phê.

Với doanh số bán hàng chậm, dự kiến ​​kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng này sẽ giảm. Các thương nhân dự báo xuất khẩu cà phê trong tháng này ở 120.000 tấn, thấp hơn 137.400 tấn xuất khẩu trong tháng 5. Tuy nhiên, lượng cà phê dự trữ của các công ty nước ngoài và xuất khẩu tại thành phố ước tính vào khoảng 300.000-320.000 tấn, giảm so với 350.000 tấn vào đầu tháng.

Việt Nam, nhà sản xuất hàng đầu thế giới của cà phê Robusta, kết thúc thu hoạch vụ mùa 2013/2014 vào tháng 12/2013, và dự kiến ​​sẽ xuất khẩu 78% sản lượng vào cuối tháng này. Vụ thu hoạch tiếp theo bắt đầu vào tháng 10.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 24/6
25/6
So sánh (+/-)
So sánh (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
105,71
106,75
+1,03
+0,68%
Dầu Brent
USD/thùng
113,90
114,22
+0,32
0,21%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
69.250,00
69.420,00
+100,00
+0,14%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,45
4,53
-0,00
-0,02%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
310,54
311,61
-0,97
-0,31%
Dầu đốt
US cent/gallon
303,15
303,97
+0,71
+0,23%
Dầu khí
USD/tấn
932,50
936,50
-3,00
-0,32%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
84.360,00
84.450,00
+120,00
+0,14%
Vàng New York
USD/ounce
1.316,00
1.316,00
0
0
Vàng TOCOM
JPY/g
4.311,00
4.310,00
-2,00
-0,05%
Bạc New York
USD/ounce
20,87
20,87
-0,23
-1,10%
Bạc TOCOM
JPY/g
68,30
68,30
0,00
0,00%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.459,56
1.459,00
-10,50
-0,71%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
826,61
824,34
-4,66
-0,56%
Đồng New York
US cent/lb
313,25
314,00
-0,50
-0,16%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.885,00
6.885,00
0,00
0,00%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.890,00
1.896,00
+6,00
+0,32%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.184,00
2.174,00
-10,00
-0,46%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
22.550,00
22.575,00
+25,00
+0,11%
Ngô
US cent/bushel
438,50
440,50
-0,25
-0,06%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
583,75
582,25
+1,50
+0,26%
Lúa mạch
US cent/bushel
333,00
332,00
-1,00
-0,30%
Gạo thô
USD/cwt
13,77
13,72
+0,03
+0,18%
Đậu tương
US cent/bushel
1.228,00
1.229,75
+5,25
+0,43%
Khô đậu tương
USD/tấn
390,50
389,30
+2,20
+0,57%
Dầu đậu tương
US cent/lb
40,73
41,20
+0,03
+0,07%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
465,00
468,20
+2,50
+0,54%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.080,00
3.043,00
-37,00
-1,20%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
177,40
176,25
-1,15
-0,65%
Đường thô
US cent/lb
18,71
18,69
-0,02
-0,11%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
161,40
154,10
-7,30
-4,52%
Bông
US cent/lb
77,40
76,67
+0,18
+0,24%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
332,70
334,20
+2,20
+0,66%
Cao su TOCOM
JPY/kg
216,90
217,20
+0,20
+0,09%
Ethanol CME
USD/gallon
2,02
2,01
0,00
+0,05%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg