(VINANET) – Giá khí gas thiên nhiên giảm trong phiên giao dịch cuối tuần 13/12 (kết thúc vào rạng sáng 14/12 giờ VN), là phiên đầu tiên giảm trong tuần qua do hoạt động bán kiếm lời sau khi giá tăng mạnh gần đây bởi thời tiết ở Mỹ lạnh. Dầu thô cũng giảm, kéo chỉ số giá hàng hóa giảm trong cùng phiên.

Xăng, đường và ngô đều giảm giá, do lo ngại tồn trữ tăng và nhu cầu giảm.

Tuy nhiên không phải mọi hàng hóa đều giảm giá.

Đồng vọt lên mức cao kỷ lục 6 tuần sau 6 phiên liên tiếp tại London bởi các nhà đầu tư đang căng thẳng chờ đợi quyết định từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) xem có rút lại QE 3 hay không.

Chỉ số 19 hàng hóa nguyên liệu Thomson Reuters/Core Commodity CRB giảm 0,2%, do giá khí gas và dầu thô giảm mạnh.

Khí gas Mỹ kỳ hạn tháng 1 giá giảm 5,8 US cent hay 1,3% xuống 4,351 USD/mBtu tại New York.

Song tính trong cả tuần qua giá vẫn tăng gần 6% sau 4 phiên liên tiếp tăng. Đây là tuần có giá tăng mạnh nhất trong vòng 2 tháng, lên mức cao nhất kể từ tháng 5 và gần chạm mức cao nhất hơn 2 năm.

Dầu thô Mỹ giá giảm 90 US cent hay 1% xuống 96,60 USD/thùng, xuống mức thấp nhất 10 ngày do dự báo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể thông báo rút lại chương trình kích thích kinh tế trong cuộc họp sẽ diễn ra vào đầu tuần tới. Thông tin nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu Mỹ sụt giảm khiến cho dự trữ nhiên liệu tăng cao cũng gây sức ép giảm lên giá dầu. Giá dầu WTI đã giảm 1,1% trong tuần qua.

Theo Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA), trong tuần kết thúc vào ngày 6/12, dự trữ xăng dầu và nhiên liệu chưng cất tăng lên mức cao nhất trong 11 tháng.

Trong tuần trước, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu của Mỹ giảm 8,35 triệu thùng/ngày và dự trữ xăng dầu tăng 6,72 triệu thùng lên mức cao nhất kể từ 4/10. Dự trữ nhiên liệu chưng cất tăng 4,54 triệu thùng. Các nhà máy lọc dầu hoạt động với 92,6% công suất, đây là mức cao nhất kể từ 12/7.

USD tăng 0,3% lên 1,3709 USD/EUR. USD tăng giá cũng khiến cho nhu cầu đầu tư vào dầu giảm.

Theo dự báo của Bloomberg, giá dầu WTI sẽ tiếp tục giảm cho tới ngày 20/12 do nguồn cầu yếu.

Trên sàn ICE tại London, giá dầu thô Brent giao kỳ hạn tháng 1 tăng 16 cent lên 108,83 USD/thùng. Khối lượng dầu giao dịch thấp hơn 12% so với mức trung bình của 100 ngày.

Chênh lệch giá dầu tiêu chuẩn châu Âu và dầu Mỹ WTI ở mức 12,23 USD/thùng phiên cuối tuần.

Tại châu Á, Trung Quốc ngày 12/12  thông báo tăng giá xăng dầu lần thứ 8 trong năm nay, theo đó giá xăng và dầu diesel thêm 60 NDT (khoảng 10 USD)/tấn, theo đó giá bán lẻ mỗi lít xăng A90 và dầu diesel sẽ bị tăng thêm lần lượt 0,04 NDT và 0,05 NDT. Đây là lần có mức tăng thấp nhất trong năm và cũng là mức thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.

Chính phủ Trung Quốc ấn định mức điều chỉnh giá dầu lần này căn cứ vào cơ chế hình thành giá dầu thành phẩm hiện hành và vào tình hình biến động giá dầu thô bình quân trên thị trường quốc tế trong 10 ngày làm việc trước ngày 12/12. Từ khoảng ngày 21/11 tới nay, do bị chi phối bởi các yếu tố như tình hình kinh tế của các nước phát triển có chiều hướng tích cực, giá dầu mỏ trên thị trường quốc tế biến động đi lên.

Từ đầu năm đến nay, Trung Quốc đã 15 lần điều chỉnh giá xăng dầu, bao gồm 8 lần tăng và 7 lần giảm, với lần đầu tiên là từ 24 giờ ngày 25/2, tăng lần lượt 300 NDT và 290 NDT/tấn.

Vàng tăng gần 1% tại New York phiên cuối tuần sau khi giảm mạnh phiên trước đó và tăng 0,5% tính chung trong cả tuần. Tuy nhiên, các thương gia cho biết kim loại quý vẫn nhạy cảm với áp lực giảm giá bởi các nhà đầu tư đã nhận được những thông tin tích cực về nền kinh tế Mỹ trước cuộc họp của Fed.

Các nhà đầu tư chờ đợi kết quả cuộc họp của Cục dự trữ Liên bang (Fed) về việc cắt giảm chương trình nới lỏng định lượng (QE) trong tuần sau.

Trên sàn Comex, giá vàng giao kỳ hạn tháng 2 tăng 9,70 USD, tương đương 0,8%, lên 1234,60 USD/oz. Trong tuần qua, giá vàng đã tăng 0,5%.

Hôm thứ 5 (12/12), giá vàng đã giảm hơn 30 USD/oz, đây là mức giảm theo ngày mạnh nhất kể từ tháng 10 do các nhà đầu tư lo ngại Fed sớm cắt giảm gói QE.

Theo Jason Rotman, chủ tịch của Lido Isle Advisors, nếu Fed giảm quy mô gói QE trong tuần sau giá vàng có thể sẽ giảm xuống mức 1200 USD/oz và có khả năng chạm đáy 1180 USD/oz của năm 2013. Nếu Fed không cắt giảm QE giá vàng sẽ ở trong khoảng 1275 USD/oz.

Giá bạc giao kỳ hạn tháng 3 tăng 15 cent trong phiên cuối tuần, tương đương 0,8%, lên 19,60 USD/oz.

Cổ phiếu của quỹ tín thác vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust tăng 0,6%. Chỉ số Philadelphia Gold and Silver index tăng 0,3%.

Trên sàn Comex, giá platium giao kỳ hạn tháng 1 giảm 1,50 USD, tương đương 0,1%, xuống 1362,90 USD/oz và giá palladium giao kỳ hạn tháng 3 giảm 4,05 USD, tương đương 0,6% xuống 716,20 USD/oz.

Cà phê robusta cao kỷ lục 4 tháng tại London do tồn trữ giảm và xuất khẩu từ Việt Nam – nước sản xuất robusta lớn nhất thế giới – chậm làm gia tăng lo ngại về nguồn cung.

Trên sàn Liffe, ngoại trừ kỳ hạn giao tháng 1 giá giảm 5 USD, tương đương 0,28% xuống 1.816 USD/tấn, các kỳ hạn khác giá đồng loạt tăng khá. Tăng mạnh nhất là kỳ hạn giao tháng 3, giá tăng 1,33% lên 1.799 USD/tấn. Các kỳ hạn khác giá tăng trên dưới 0,8%.

 Giá cà phê robusta giao tháng 3 lên cao nhất 3 tháng khi số liệu cho thấy dự trữ cà phê theo dõi bởi sàn Liffe giảm 32% trong 2 tuần qua xuống 31.420 tấn tính đến 09/12 , từ 45.900 tấn trước đó. Đó là mức thấp nhất kể từ ít nhất năm 2002. Con số này thấp hơn so với mức dự trữ 52.000 tấn vào cuối năm nay mà 10 nhà đầu tư dự đoán trong một cuộc khảo sát do Bloomberg thực hiện.

Cà phê hạt robusta tăng 11% trong tháng 11, mức tăng hàng tháng lớn nhất kể từ năm 2011 do lượng xuất khẩu thấp của nước sản xuất hàng đầu Việt Nam. Nông dân bán 11% của tổng sản lượng 1,7 triệu tấn trong mùa 2013-2014 , giảm 18% so với cùng kỳ một năm trước đó, theo một khảo sát của Bloomberg với 12 nhà đầu tư được công bố ngày hôm qua.

Giá cà phê arabica cũng tăng cao sau thông tin hỗ trợ của chính phủ Brazil. Khối lượng giao dịch tương lai cao hơn mức trung bình 8% trong 100 ngày qua, theo số liệu của Bloomberg.

Trên sàn ICE tại NewYork, giá cà phê arabica các kỳ hạn đồng loạt tăng mạnh. Cụ thể kỳ hạn giao tháng 3 giá tăng 3,55% lên 115,25 cent/pound. Kỳ hạn giao tháng 5 giá tăng 3.,39% lên 117,45 cent/pound. Các kỳ hạn khác giá đều tăng trên 3%.

Tại Việt Nam sáng 14/12 giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên không đổi hoặc giảm nhẹ 100 nghìn đồng/tấn về 35,3-35,6 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB giảm 5 USD xuống 1.816 USD/tấn.

Giá cà phê trong nước điều chỉnh giảm nhẹ theo kỳ hạn giao gần tháng 1 trên sàn Liffe tại London, còn hầu hết các kỳ hạn khác đều tăng.

Giá cao su giao tháng 5 trên sàn Tocom tại Tokyo hôm 13/12 giảm 0,4 yên xuống 283,7 yên/kg.

Giá cao su Tocom hôm nay giảm nhẹ trở lại từ mức cao nhất 2 tháng do lo ngại Mỹ sớm cắt giảm gói kích thích kinh tế QE3 dù có nhiều thông tin hỗ trợ như giá dầu tăng, doanh số bán ô tô của Trung Quốc tháng 11 tăng cao.

Các nhà đầu tư cao su cũng đang chờ đợi quyết định của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong cuộc họp về chính sách trong hai ngày 17-18/12 tới.

Giá cao su giao tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Thượng Hải giảm 60 nhân dân tệ, tương đương 0,3% xuống 19.885 nhân dân tệ/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá
+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
96,60
-0,90
-0,92%

Dầu Brent

USD/thùng
108,83
+0,16
+0,15%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
67.260,00
-440,00
-0,65%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
4,35
-0,06
-1,32%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
262,93
-0,55
-0,21%
Dầu đốt

US cent/gallon

297,57
-0,44
-0,15%

Dầu khí

USD/tấn
917,75
-7,75
-0,84%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
79.600,00
-410,00
-0,51%

Vàng New York

USD/ounce
1.234,60
+9,70
+0,79%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.099,00
-1,00
-0,02%

Bạc New York

USD/ounce
19,60
+0,15
+0,78%

Bạc TOCOM

JPY/g
65,30
+0,40
+0,62%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.364,50
+0,55
+0,04%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

716,45
-1,00
-0,14%

Đồng New York

US cent/lb

331,20
+1,65
+0,50%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
7.255,00
+29,00
+0,40%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.799,00
+8,00
+0,45%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
1.978,00
+11,00
+0,56%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
22.750,00
+250,00
+1,11%
Ngô

US cent/bushel

425,50
-8,75
-2,01%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

628,75
-5,00
-0,79%
Lúa mạch

US cent/bushel

340,00
-11,75
-3,34%

Gạo thô

USD/cwt
15,55
+0,09
+0,55%

Đậu tương

US cent/bushel

1.313,75
+2,25
+0,17%

Khô đậu tương

USD/tấn
423,20
+1,70
+0,40%

Dầu đậu tương

US cent/lb

40,20
-0,17
-0,42%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
450,30
-8,30
-1,81%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.774,00
-13,00
-0,47%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

115,25
+3,95
+3,55%

Đường thô

US cent/lb

16,27
-0,03
-0,18%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

144,45
-1,80
-1,23%
Bông

US cent/lb

83,22
+0,16
+0,19%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

1.022,00
0,00
0,00%
Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

369,00
+9,90
+2,76%

Cao su TOCOM

JPY/kg
285,00
+1,30
+0,46%

Ethanol CME

USD/gallon
1,63
-0,04
-2,33%

(T.H – Reuters, Bloomberg)