(VINANET) – Đa số các thị trường Mỹ đóng cửa để nghỉ lễ độc lập trong ngày thứ 6.
Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên thị trường Hoa Kỳ tuần tới 4/7 (kết thúc vào rạng sáng 5/7 giờ VN) giảm mạnh nhất trong vòng một tháng do giảm lo ngại về nguồn cung từ Libya và Iran, mặc dù triển vọng nhu cầu sẽ cải thiện ở nước tiêu thụ hàng đầu thế giới ngăn giá giảm mạnh.
Dầu thô WTI giảm phiên thứ 6 liên tiếp – kỳ giảm dài nhất kể từ tháng 5/2012, mất 1,6% trong cả tuần, mức giảm cũng mạnh nhất kể từ cuối tháng 5, chốt ở 103,77 USD/thùng.
Dầu thô Brent cũng giảm gần 2% trong tuần qua, mức giảm mạnh nhất kể từ đầu tháng 1, kết thúc ở 110,64 USD.
Tăng trưởng việc làm của Mỹ tháng 6 khả quan và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất 6 năm là những dấu hiệu mới nhất cho thấy nền kinh tế này tiếp tục tăng trưởng bền vững trong nửa cuối năm, cơ sở để nhu cầu xăng dầu gia tăng.
Kinh tế thế giới đã kết thúc nửa đầu năm với hoạt động kinh doanh sôi động trong tháng 6, với đơn đặt hàng mới tăng nhanh nhất trong vòng hơn 3 năm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng phiên cuối tuần trong trạng thái giằng co giữa 2 yếu tố: cổ phiếu châu Âu giảm giá nhưng số liệu tích cực tại Mỹ đẩy USD tăng giá.
Giá vàng giao tháng 8 trên sàn Comex New York tăng 0,1% phiên cuối tuần lên 1.321,3 USD/ounce với khối lượng giao dịch thấp hơn 79% so với mức trung bình 100 ngày.
Số liệu cũng làm tăng đồn đoán rằng Fed có thể tăng lãi suất sớm hơn dự kiến.
Đồng USD tăng 0,1% so với các đồng tiền mạnh trong giỏ tiền tệ, chỉ thấp hơn mức đỉnh 1 tuần qua trong khi cổ phiếu châu Âu trong tình trạng trái chiều do các nhà đầu tư tận dụng cơ hội kiếm lời sau khi chứng kiến tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 3.
Đồng USD mạnh hơn đã khiến tài sản định giá bằng đồng tiền này như vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Tính chung cả tuần, giá vàng thế giới tăng được hơn 5 USD/oz, đánh dấu tuần tăng thứ 5 liên tục. Hiện giá vàng quốc tế vẫn đang được hỗ trợ bởi bất ổn ở Iraq và Ukraine. Tuy nhiên, ngược lại, vàng cũng chịu áp lực giảm giá do báo cáo việc làm tháng 6 khả quan hơn dự kiến của Mỹ và nhu cầu vàng vật chất ảm đạm trên toàn cầu.
Giới phân tích đánh giá, để giá vàng có những chuyển biến rõ rệt hơn, cần có những thông tin tác động mạnh hơn. Tuy vậy, việc vàng duy trì được mốc giá 1.300 USD/oz có thể xem như một tín hiệu tích cực cho triển vọng giá vàng.
Quỹ tín thác đầu tư vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust hôm thứ Ba tuần này mua ròng gần 5,7 tấn vàng, nâng mức nắm giữ lên 796,4 tấn. Đây là phiên mua ròng mạnh nhất của quỹ này trong vòng gần 4 tháng trở lại đây.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng giảm phiên cuối tuần nhưng tính chung trong tuần vẫn tăng mạnh nhất trong vòng hơn 9 tháng. Phiên cuối tuần có lúc giá vọt lên mức cao kỷ lục 4 tháng bởi số liệu việc làm tích cực từ Mỹ đẩy tăng triển vọng nhu cầu kim loại công nghiệp.
Đồng kỳ hạn 3 tháng tại London giá tăng 3% trong tuần lên 7.190 USD/tấn, tăng mạnh nhất kể từ 20/9.
Dự trữ đồng tại LME mấy phiên gần đây tăng, song vẫn ở quanh mức thấp nhất 6 năm là 150.000 tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê Robusta tại London đồng loạt giảm nhẹ sau 3 phiên tăng liên tiếp. Kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm 12 USD, tương đương 0,58% xuống 2.053 USD/tấn. Giá giao tháng 9 giá giảm 12 USD, tương đương 2.056 USD/tấn xuống 2.056 USD/tấn. Các kỳ hạn khác giá giảm trên dưới 0,5%.
Thị trường giao dịch cà phê arabica New York phiên cuối tuần nghỉ lễ độc lập.
Trên thị trường trong nước, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên sáng nay 5/7 đồng loạt giảm nhẹ, giảm 200 nghìn đồng xuống 40,5-41 triệu đồng/tấn.
Giá cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB giảm 12 USD xuống 2.016 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 28/6
|
Giá 5/7
|
So với 4/7
|
So với 4/7 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
105,74
|
103,77
|
-0,29
|
-0,28%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
113,30
|
110,64
|
-0,36
|
-0,32%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
68.420,00
|
68.060,00
|
-80,00
|
-0,12%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
4,41
|
4,37
|
-0,04
|
-0,89%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
309,88
|
301,29
|
-0,69
|
-0,23%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
299,76
|
291,72
|
-1,12
|
-0,38%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
924,50
|
901,25
|
-2,25
|
-0,25%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
83.380,00
|
83.890,00
|
+10,00
|
+0,01%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.320,00
|
1.321,30
|
+0,70
|
+0,05%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.300,00
|
4.335,00
|
-1,00
|
-0,02%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,13
|
21,20
|
+0,06
|
+0,30%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
69,00
|
69,40
|
-0,20
|
-0,29%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.477,25
|
1.499,00
|
-0,69
|
-0,05%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
841,15
|
864,88
|
+5,79
|
+0,67%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
316,80
|
327,00
|
-0,95
|
-0,29%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.945,00
|
7.150,00
|
-25,00
|
-0,35%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.885,00
|
1.923,00
|
-12,00
|
-0,62%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.185,00
|
2.237,00
|
-2,00
|
-0,09%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
22.300,00
|
22.775,00
|
-125,00
|
-0,55%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
447,25
|
415,25
|
-2,75
|
-0,66%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
593,75
|
579,50
|
+4,00
|
+0,70%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
328,75
|
345,75
|
+3,75
|
+1,10%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,56
|
13,58
|
-0,11
|
-0,80%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.228,00
|
1.133,50
|
-8,00
|
-0,70%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
393,00
|
360,20
|
-2,90
|
-0,80%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
40,39
|
38,77
|
-0,01
|
-0,03%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
467,40
|
457,40
|
+1,50
|
+0,33%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.135,00
|
3.106,00
|
-11,00
|
-0,35%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
172,55
|
171,80
|
-1,50
|
-0,87%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,32
|
17,81
|
-0,06
|
-0,34%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
148,65
|
148,50
|
+0,40
|
+0,27%
|
Bông
|
US cent/lb
|
74,85
|
72,06
|
-0,41
|
-0,57%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
336,70
|
338,10
|
+0,30
|
+0,09%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
212,00
|
211,10
|
-0,80
|
-0,38%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,06
|
2,09
|
+0,03
|
+1,36%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg