Bảng giá hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng hàng ngày

Loại hạt tiêu

Giá cả

(Đơn vị: USD/tấn)

Thay đổi

(%)

Tiêu đen Lampung - Indonesia

7.320

+0,23

Tiêu trắng Muntok - Indonesia

8.970

+0,25

Tiêu đen Brazil ASTA 570

6.100

-4,92

Tiêu đen Kuching Malaysia ASTA

8.500

-

Tiêu trắng Malaysia ASTA

10.400

-

Tiêu đen loại 500 g/l Việt Nam

5.800

-

Tiêu đen loại 550 g/l Việt Nam

6.200

-

Tiêu trắng Việt Nam ASTA

8.500

-

Lưu ý: Các giá trên chỉ mang tính chất tham khảo, mức giá thực tế sẽ có sự chênh lệch theo từng địa phương, phương thức vận chuyển, phương thức thanh toán, khối lượng giao dịch… Quý độc giả vui lòng liên hệ đến các doanh nghiệp, đại lý kinh doanh hạt tiêu gần nhất để được tư vấn cụ thể.
Các thông tin nổi bật:
- Theo nhận định của giới chuyên gia, dấu hiệu thiếu hụt nguồn cung so với nhu cầu sẽ tiếp tục được ghi nhận trên thị trường trong thời gian tới. Bên cạnh đó, chi phí vận chuyển hàng hóa tăng nhanh và tắc nghẽn cảng ở châu Á cũng tác động đến giá cả ở các thị trường nhập khẩu, và có thể gây ra sự chậm trễ vận chuyển, khiến giá tăng trong trung và dài hạn.
- Thông tin từ Hiệp hội Hạt tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), hiện Brazil đã có 3 nhà máy hạt tiêu tiệt trùng, đang xây thêm 2 nhà máy nữa và sẽ hoàn thành trong năm 2025. Trong tương lai hạt tiêu Brazil sẽ cạnh tranh tốt hơn với Việt Nam, do đó nguồn cung nhập khẩu về sẽ ít hơn nên các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động nguồn nguyên liệu.
- Cũng theo VPSA, chi phí vận chuyển hàng hóa tăng nhanh và tắc nghẽn cảng tại châu Á, như ở Singapore và Malaysia ảnh hưởng đến giá cả tại các điểm đến và có thể gây ra sự chậm trễ trong vận chuyển.
- Đợt khảo sát đánh giá hiện trạng 3 tỉnh Tây Nguyên vào đầu tháng 7/2024 của Hiệp hội cho thấy, việc duy trì và sản xuất hạt tiêu của người nông dân ngày càng bị cạnh tranh bởi cây sầu riêng và cà phê. Diện tích trồng mới có ghi nhận nhưng không nhiều, chủ yếu trồng xen hạt tiêu với cà phê với tỷ lệ 6-2.
- VPSA nhận định, sản lượng vụ tới có thể tương đương hoặc tăng nhẹ so với năm 2024. Lượng hàng tồn trong dân không còn nhiều, tình trạng sâu bệnh hại vẫn còn nhưng không đáng kể, người dân xử lý được một số bệnh phổ biến như: vàng lá, chết chậm, bọ xít lưới, đốm tảo, tuyến trùng.

Nguồn: Vinanet/VITIC, IPC