Dù ngành thủy sản đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, mang lại giá trị xuất khẩu lớn và là một trong 5 ngành kinh tế biển then chốt trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030, nhưng sản xuất thủy sản vẫn dựa vào tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái. Để phát triển bền vững, ngành thủy sản Việt Nam cần chuyển đổi từ dựa vào tài nguyên sang mô hình kinh tế tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao, xanh hóa chuỗi giá trị (nuôi tuần hoàn, năng lượng sạch)…
Kinh tế tuần hoàn mở lối phát triển bền vững
Theo số liệu từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), bức tranh xuất khẩu năm 2025 đang mang gam màu rực rỡ. Tính chung 11 tháng của năm 2025, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã đạt hơn 10,5 tỷ USD, tăng trưởng ấn tượng 14,6% so với cùng kỳ. Giới chuyên môn nhận định, cột mốc kỷ lục từ 11,2- 11,5 tỷ USD cho cả năm 2025 là hoàn toàn nằm trong tầm tay. Đây là mức kim ngạch cao nhất trong lịch sử phát triển của ngành, khẳng định vị thế trụ cột của thủy sản trong nền nông nghiệp quốc gia.
Tuy nhiên, là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, thủy sản Việt Nam cũng đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức lớn, mang tính hệ thống, như: cạn kiệt nguồn lợi tự nhiên, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chất lượng con giống chưa ổn định, chi phí đầu vào cao, áp lực từ "thẻ vàng IUU" của Liên minh châu Âu (EU), cùng các yêu cầu khắt khe về môi trường và lao động từ các thị trường nhập khẩu. Những thách thức này đòi hỏi ngành phải thay đổi tư duy phát triển và tìm kiếm các mô hình bền vững, hiệu quả hơn.
Ngoài ra, một vấn đề đã và đang trở thành nguy cơ hiện hữu cho các hoạt động thủy sản hiện nay chính là ô nhiễm môi trường. Ngành thủy sản không chỉ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ ô nhiễm mà trong một số trường hợp còn có thể là nguồn gây ô nhiễm nếu không được quản lý, giám sát chặt chẽ. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lợi, hệ sinh thái, sinh kế của ngư dân, cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Do đó, việc tăng cường kiểm soát chất thải, đổi mới công nghệ, chuyểnđổi số… cùng với huy động sự tham gia của toàn xã hội sẽ tạo nền tảng quan trọng để hình thành các sản phẩm thủy sản Việt Nam chất lượng, giá trị cao với chi phí hợp lý, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa không gây tổn hại đến môi trường và hệ sinh thái tự nhiên.
Bên cạnh đó, việc chuyển mình với kinh tế tuần hoàn trong thủy sản là xu hướng tất yếu, một trong những hướng đi tiềm năng. Hiện ngành chế biến thủy sản mỗi năm tạo ra khoảng 1 triệu tấn phụ phẩm, song chỉ khoảng 40% được tận dụng chủ yếu để sản xuất bột cá giá rẻ. Phần còn lại nếu không được xử lý đúng cách sẽ gây lãng phí lớn và nguy cơ ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, kinh tế tuần hoàn được xem là mô hình phù hợp để giúp ngành nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký VASEP nhấn mạnh, kinh tế tuần hoàn giúp ngành thủy sản Việt Nam giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao giá trị sản phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng khả năng hội nhập thị trường toàn cầu.
Cần cú hích chính sách
Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, thực hiện Quyết định số 911/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án bảo vệ môi trường trong hoạt động thủy sản giai đoạn 2021 - 2030 (gọi tắt là Đề án 911), ngành thủy sản đã hoàn thiện nhiều quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, đồng thời ban hành các hướng dẫn kỹ thuật quan trọng về kiểm soát nguồn thải và thu gom rác thải nhựa tại tàu cá, cảng cá. Công tác phòng ngừa, quản lý ô nhiễm và quan trắc môi trường đất, nước, trầm tích được tổ chức đồng bộ với mạng lưới quan trắc trải rộng từ Trung ương đến địa phương, phục vụ hiệu quả trong quản lý.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản được chú trọng thông qua việc hình thành các chương trình và quy hoạch quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050, góp phần phục hồi các hệ sinh thái quan trọng.
Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp đã chủ động triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong sản xuất thủy sản, tạo động lực thúc đẩy phát triển bền vững toàn ngành. Theo VASEP, một số doanh nghiệp bắt đầu thí điểm đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA) để xác định “điểm nóng” phát thải - thường nằm ở khâu thức ăn nuôi trồng (trên 50% tổng phát thải). Hầu hết nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu lớn đã lắp hệ thống xử lý đạt QCVN 11:2015 trước khi xả thải.
Các doanh nghiệp cũng có xu hướng dùng chế phẩm sinh học thay hóa chất trong xử lý môi trường ngày càng phổ biến. Các bao bì thải bỏ hầu hết đều được thu gom đưa vào tái chế. Đặc biệt, ngành phụ phẩm (collagen, gelatin, dầu cá... từ phế liệu: đầu/vỏ tôm, da cá, mỡ cá...) đã trở thành một ngành công nghiệp thực thụ, đóng góp hàng trăm triệu USD/năm, đưa Việt Nam thành điểm sáng về kinh tế tuần hoàn trong khu vực.
Cùng với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các bộ, ngành như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an, các hiệp hội, viện trường, tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp đã đồng hành trong nhiều hoạt động giám sát môi trường, tuyên truyền ngư dân, đổi mới công nghệ sản xuất và hoàn thiện cơ chế quản lý.
Do vậy, để Đề án 911 phát huy hiệu quả trong giai đoạn 2026 - 2030, các chuyên gia cho rằng, nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách để thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của tất cả các bên; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất; hợp tác công tư (PPP) trong bảo vệ môi trường ngành thuỷ sản; thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh; công nghệ trong hoạt động sản xuất, tái chế, xử lý chất thải; xây dựng năng lực phòng ngừa, cảnh báo nguy cơ sự cố môi trường trong ngành thuỷ sản…