Cập nhật giá cà phê thế giới
Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 7/2023 được ghi nhận tại mức 2.588 USD/tấn sau khi tăng 1,89% (tương đương 48 USD).
Giá cà phê arabica giao tháng 7/2023 tại New York ở mức 192 US cent/pound sau khi tăng 2,87% (tương đương 5,35 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h06 (giờ Việt Nam).
Xuất khẩu cà phê từ khu vực châu Phi cũng giảm 5% xuống còn 1,12 triệu bao vào tháng 3. Luỹ kế trong 6 tháng đầu tiên của niên vụ cà phê hiện tại, tổng xuất khẩu của khu vực châu Phi là 6,35 triệu bao, tăng nhẹ 0,3% so với cùng kỳ.
Trong tháng 3, xuất khẩu cà phê của Bờ Biển Ngà và Kenya giảm lần lượt là 41,4% và 17,7%, xuống 0,12 triệu bao và 58.340 bao. Tuy nhiên, Burundi, Rwanda và Uganda lại tăng lần lượt là 86,7%, 249,2% và 2,0%.
Còn với khu vực Trung Mỹ và Mexico, xuất khẩu cà phê tháng 3 đạt 1,7 triệu bao, giảm 15,4% so với cùng kỳ. Đây đã là tháng sụt giảm thứ năm trong sáu tháng đầu niên vụ hiện tại. Kết quả là xuất khẩu của khu vực đã giảm 11,8% trong 6 tháng đầu niên vụ, đạt tổng cộng 5,8 triệu bao so với 6,5 triệu bao của cùng kỳ 2021 - 2022.
Trong tháng 3, Guatemala chịu sự suy giảm nặng nề nhất (-44,9%), trong khi Honduras là quốc gia lớn duy nhất có mức tăng trưởng dương (2,0%). Đối với Honduras, đây đã là tháng mở rộng thứ ba, sau 11 tháng giảm liên tiếp từ tháng 2 đến tháng 12/2022.
Ở chiều ngược lại, khu vực châu Á và châu Đại Dương là khu vực duy nhất ghi nhận tăng trưởng dương từ đầu niên vụ đến nay. Cụ thể, xuất khẩu của khu vực này đã tăng 0,2% lên 5 triệu bao trong tháng 3 và tăng 2,5% lên hơn 24 triệu bao trong 6 tháng đầu niên vụ 2022 - 2023.
Indonesia là động lực tăng trưởng chính của khu vực với xuất khẩu tháng 3 tăng 16% lên gần 0,6 triệu bao, bù đắp cho sự suy giảm lần lượt là 1,6% và 1,1% của Ấn Độ và Việt Nam.
Sự gia tăng xuất khẩu của Indonesia trái ngược với dự báo mới nhất của ICO về triển vọng cà phê niên vụ 2022 - 2023 của nước này. Theo đó, ICO dự kiến sản xuất của Indonesia sẽ tăng với tốc độ chậm hơn mức tiêu thụ, 1,1% so với 5,1%, do đó làm giảm nguồn cung có sẵn cho xuất khẩu.