Việt Nam xuất khẩu sang Australia các mặt hàng như giày dép, hàng dệt may, máy vi tính và linh kiện, điện thoại các loại & linh kiện, gỗ và sản phẩm, máy móc thiết bị… trong rổ hàng hóa xuất khẩu sang Australia thời gian này thì điện thoại các loại và linh kiện đạt kim ngạch lớn nhất, 183,1 triệu USD, chiếm 28,8% tổng kim ngạch, tăng 21,78% so với cùng kỳ. Đứng thứ hai là mặt hàng dầu thô, tuy nhiên tốc độ xuất khẩu mặt dầu thô sang Australia lại giảm tương đối, giảm 70,21%, tương ứng với 60,7 triệu USD. Kế đến là giày dép các loại, đạt 40,7 triệu USD, tăng 7,55%...
Nhìn chung, các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Australia trong quí I/2016 đều với tốc độ tăng trưởng dương, chiếm 54,5%, trong đó xuất khẩu hàng sản phẩm từ sắt thép sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ tăng mạnh vượt trội, tăng lần lượt 92,58% và 90,10%, đạt tương ứng 11,5 triệu USD và 4,3 triệu USD. Ngược lại, số mặt hàng với tốc độ tăng trưởng âm chiếm 45,4%, trong đó xuất khẩu hàng dầu thô giảm mạnh nhất.
Tình hình xuất khẩu sang thị trường Australia 3 tháng 2016
ĐVT: USD
Mặt hàng
|
3 tháng 2016
|
3 tháng 2015
|
So sánh +/- (%)
|
Tổng cộng
|
635.267.198
|
742.855.376
|
-14,48
|
điện thoại các loại và linh kiện
|
183.112.945
|
150.363.402
|
21,78
|
dầu thô
|
60.707.672
|
203.774.720
|
-70,21
|
giày dép các loại
|
40.719.714
|
37.860.952
|
7,55
|
hàng dệt, may
|
37.264.085
|
31.547.736
|
18,12
|
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
36.097.058
|
53.416.170
|
-32,42
|
hàng thủy sản
|
35.812.350
|
36.513.179
|
-1,92
|
gỗ và sản phẩm gỗ
|
31.058.220
|
31.100.624
|
-0,14
|
máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác
|
26.087.108
|
44.858.442
|
-41,85
|
hạt điều
|
17.976.015
|
21.956.043
|
-18,13
|
phương tiện vân tải và phụ tùng
|
13.200.010
|
8.940.209
|
47,65
|
kim loại thường khác và sản phẩm
|
12.944.305
|
12.514.038
|
3,44
|
sản phẩm từ sắt thép
|
11.503.105
|
5.973.049
|
92,58
|
túi xách, ví, vali, mũ, ô dù
|
10.179.377
|
9.608.895
|
5,94
|
sản phẩm từ chất dẻo
|
8.688.908
|
8.695.531
|
-0,08
|
cà phê
|
6.963.399
|
6.541.632
|
6,45
|
hàng rau quả
|
5.562.158
|
4.209.628
|
32,13
|
giấy và các sản phẩm từ giấy
|
5.422.757
|
6.075.403
|
-10,74
|
sắt thép các loại
|
5.264.039
|
3.510.869
|
49,94
|
hạt tiêu
|
4.945.431
|
4.034.469
|
22,58
|
sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ
|
4.399.828
|
2.314.535
|
90,10
|
đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận
|
4.235.063
|
2.667.192
|
58,78
|
clanke và xi măng
|
4.003.063
|
3.455.136
|
15,86
|
bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
3.711.390
|
2.463.558
|
50,65
|
sản phẩm hóa chất
|
3.066.122
|
2.852.280
|
7,50
|
đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
2.848.314
|
3.608.860
|
-21,07
|
sản phẩm từ cao su
|
2.258.151
|
2.350.513
|
-3,93
|
sản phẩm gốm, sứ
|
1.935.348
|
2.226.413
|
-13,07
|
nguyên phụ liệu dệt may, da giày
|
1.745.543
|
1.361.386
|
28,22
|
dây điện và dây cáp điện
|
1.518.814
|
1.353.166
|
12,24
|
sản phẩm mây, tre, cói và thảm
|
1.451.075
|
1.952.815
|
-25,69
|
gạo
|
994.035
|
1.127.980
|
-11,87
|
chất dẻo nguyên liệu
|
642.428
|
1.040.042
|
-38,23
|
máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
33.830
|
38.590
|
-12,33
|
(Nguồn số liệu: Thống kê sơ bộ TCHQ Việt Nam)
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nhằm đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước trong lĩnh vực này, vừa qua Bộ NNPTNT và Đai sứ quán Australia đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu và sáng tạo nông nghiệp 2016”.
Theo Đại sứ Australia tại Việt Nam Hugh Borrowman, mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp giữa Việt Nam và Australia đang ngày càng phát triển và đạt hiệu quả cao. Australia đang cam kết hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng đến năm 2020 thông qua việc thúc đẩy khối ngành hàng tư nhân, nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề của người lao động.
Kim ngạch thương mại giữa hai nước ngày càng tăng, trong đó nông nghiệp là lĩnh vực chủ đạo với sản lượng chiếm đến 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Australia sang Việt Nam. Cùng với đó, Australia đang đầu tư dài hạn vào phát triển ngành nông nghiệp thông qua Trung tâm Nghiên cứu noogn nghiệp quốc tế Australia (ACIAR), trong đó đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường bền vững và cải thiện hiệu quả chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam.
Hiện nay chương trình ACIAR đã và đang đem lại nhiều cơ hội hợp tác nghiên cứu, sáng tạ cho các ngành trọng điểm của nông nghiệp Việt Nam như: Kinh doanh nông sản, chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, bò sữa. Từ năm 1993 đến nay, ACIAR đã tài trợ cho hơn 130 dự án với tổng giá trị lên đến 50 triệu AUD. Tại thời điểm này, ACIAR đang hỗ trợ cho 15 dự án nghiên cứu tại Việt Nam.
Theo nhận định của Thương vụ Việt nam tại Australia,mặt hàng thủy sản Việt Nam đang xuất khẩu nhiều nhất sang Australia là tôm, chiếm gần 60% giá trị xuất khẩu của thủy sản Việt Nam sang thị trường này, trong đó tôm đông lạnh chiếm gần 255. Trên thị trường tôm của Australia, Việt Nam đang chiếm 30% thị phần, chỉ sau Trung Quốc (35%). Song, đối với sản phẩm tôm chế biến, Việt Nam đang dẫn đầu.
Từ ngày 18/4/2015, Bộ Nông nghiệp Australia đã chính thức cho phép nhập khẩu trái vải tươi của Việt Nam. Điều này mở ra cơ họi lớn hơn cho một số loại trái cây khác như thanh long, nhãn, xoài,… tiến vào thị trường rất giàu tiềm năng này. Cũng theo Thương vụ Việt Nam tại Australia, nhu cầu các mặt hàng của thị trường Australia đều rất lớn. Mỗi năm, Australia nhập khẩu khoảng 80 tỷ USD. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Australia mới chỉ đạt gần 4 tỷ USD.
Nguồn: Phòng Thông tin kinh tế quốc tế - VITIC/Nông nghiệp Việt Nam