Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2014 ước tính đạt 13,2 tỷ USD, giảm 6,2% so với tháng trước, do kim ngạch một số mặt hàng chiếm tỷ trọng cao giảm mạnh: Sắt thép giảm 28,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 20,4%; cao su giảm 17%; gạo giảm 15,7%; thủy sản giảm 13,1%; dệt may giảm 10,5%.
Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11 tăng 10,6%, với kim ngạch một số mặt tăng cao: Hàng dệt may tăng 20,3%, gạo tăng 45,6%, thủy sản tăng 12,1%.
Tính chung 11 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 137 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 44,8 tỷ USD, tăng 13%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 92,2 tỷ USD, tăng 14,1%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tăng ở mức khá: Hàng dệt may đạt 19,2 tỷ USD, tăng 18,2%; giày dép đạt 9,2 tỷ USD, tăng 23%; thủy sản đạt 7,3 tỷ USD, tăng 20,2%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 6,7 tỷ USD, tăng 21,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5,6 tỷ USD, tăng 13,%; cà phê đạt 3,3 tỷ USD, tăng 34,3%; hạt điều đạt 1,8 tỷ USD, tăng 23%; hạt tiêu đạt 1,2 tỷ USD, tăng 35,7%. Một số mặt hàng giảm cả về lượng và kim ngạch: Than đá giảm 40,1% về lượng(4,6 nghìn tấn) và giảm 37,9% về kim ngạch (309 triệu USD); xăng dầu giảm 22,7% (275 nghìn tấn) và giảm 22,9% (259 triệu USD). Riêng lượng cao su xuất khẩu mặc dù tăng nhẹ với 1,7% nhưng kim ngạch giảm sâu ở mức 26,2% do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh ở mức 27,5% so với cùng kỳ năm 2013.
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 11 tháng, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 26,2 tỷ USD, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm 2013; tiếp theo là EU đạt 24,8 tỷ USD, tăng 11,4%; ASEAN đạt 17,3 tỷ USD, tăng 3%; Trung Quốc đạt 13,5 tỷ USD, tăng 13,1%; Nhật Bản đạt 13,6 tỷ USD, tăng 9,9%; Hàn Quốc đạt 6,7 tỷ USD, tăng 10,8%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 10/2014 đạt 14,1 tỷ USD, cao hơn 472 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 136 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện cao hơn 133 triệu USD; điện tử máy tính và linh kiện cao hơn 67 triệu USD; vải cao hơn 56 triệu USD; sắt thép cao hơn 43 triệu USD.
Nguồn: Báo Hải quan