Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh do lượng dự trữ xăng của Mỹ gia tăng.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 7/2017 trên sàn New York giảm 1,73 USD (3,7%) xuống 44,73 USD/thùng; dầu Brent biển Bắc giao tháng 8/2017 trên sàn London giảm 1,72 USD (3,5%) xuống 47,00 USD/thùng tại London.
Cả hai loại dầu này đều giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2017 do lo ngại về nguồn cung toàn cầu dư thừa tiếp tục gây sức ép lên thị trường.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu của Mỹ đã giảm 1,7 triệu thùng trong tuần vừa qua xuống còn 511,5 triệu thùng. Tuy nhiên, lượng dự trữ xăng lại tăng 2,1 triệu thùng lên 242,4 triệu thùng, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo nhận định công bố ngày 13/6 của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), thị trường dầu mỏ đang trong quá trình tái cân bằng chậm chạp. OPEC cũng cho biết thêm rằng sự gia tăng sản lượng khai thác của OPEC trong tháng Năm là do sản lượng của các nước “được miễn tham gia” thỏa thuận cắt giảm sản lượng tăng lên.
Theo báo cáo hàng tháng, do sản lượng dầu mỏ của Libya và Nigeria tăng, nên sản lượng trong tháng Năm của OPEC đã tăng 336.000 thùng/ngày lên 32,139 triệu thùng/ngày, mức cao nhất kể từ khi OPEC bắt đầu thực thi thỏa thuận cắt giảm sản lượng từ đầu tháng Một năm nay.
Dù vậy, OPEC cho biết dự trữ dầu mỏ tại các quốc gia công nghiệp hóa đã giảm sút trong tháng Tư và dự kiến tiếp tục giảm trong nửa cuối năm nay. Tuy nhiên, OPEC lưu ý rằng việc sản lượng dầu mỏ phục hồi tại Mỹ đang làm chậm lại những nỗ lực thu hẹp nguồn cung của các nước khác.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất lần thứ hai trong năm nay.
Tại New York, giá vàng giao ngày giảm 0,2% xuống còn 1.263,03 USD/ounce; vàng giao tháng 8/2017 của Mỹ tăng 0,6% lên 1.275,90 USD/ounce trước khi Fed đưa ra thông báo về lãi suất.
Ngày 14/6, Fed đã tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25 điểm phần trăm, lần thứ hai trong vòng ba tháng qua, đồng thời nhấn mạnh các yếu tố như nền kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng và thị trường việc làm sôi động đã khiến Fed đưa ra quyết định này.
Trong tuyên bố đưa ra sau hai ngày nhóm họp, Ủy ban Thị trường mở Liên bang - cơ quan hoạch định chính sách của Fed - cho biết do các yếu tố nền kinh tế tăng trưởng khiêm tốn, thị trường việc làm tiếp tục được củng cố và lạm phát giảm nhẹ, Fed quyết định tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25 điểm phần trăm, lên mức 1-1,25%.
Fed - Ngân hàng trung ương Mỹ - được dự đoán sẽ tăng lãi suất và đưa ra các chỉ dấu đối với chính sách tiền tệ trong cuộc họp vào hai ngày 13-14/6. Yếu tố này chắc sẽ tác động ít nhiều tới hướng đi của giá vàng trong thời gian tới.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất 16 tháng do các nhà đầu cơ bán ra mạnh, trong khi cà phê arabica hồi phục từ mức thấp nhất 1 năm do đồng tiền Brazil tăng giá.
Đường thô giao tháng 7 giá giảm 0,17 US cent tương đương 1,2% xuống 13,62 US cent/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2016 là 13,36 USD.
Đường trắng giao tháng 8 giá giảm 4,3 USD tương đương 1,1% xuống 401,60 USD/tấn, trong phiên có lúc giá chỉ 395,60 USD, thấp nhất kể từ tháng 2/2016.
Sucden dự báo thị trường đường sẽ dư thừa 3,5 triệu tấn trong niên vụ 2017/18.
Với cà phê, giá arabica giao tháng 9 giảm 0,9 US cent tương đương 0,7% xuống 1,2775 USD/lb, trong khi robusta giao tháng 7 tăng 16 USD tương đương 0,8% lên 2.038 USD/tấn.
Giá cao su trên thị trường thế giới bật tăng mạnh trong ngày 13/6 sau thông tin Chính phủ Thái Lan đưa ra các biện pháp bình ổn giá cao su, cũng như việc 3 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới dự kiến nhóm họp cuối tuần này bàn về cắt giảm sản lượng xuất khẩu.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
44,73
|
-1,73
|
-3,7%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
47,00
|
-1,72
|
-3,5%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
32.340,00
|
-880,00
|
-2,65%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,95
|
+0,01
|
+0,48%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
143,16
|
-0,11
|
-0,08%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
141,15
|
+0,13
|
+0,09%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
419,50
|
+0,75
|
+0,18%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
46.130,00
|
-970,00
|
-2,06%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.267,70
|
-8,20
|
-0,64%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
17,02
|
-0,12
|
-0,65%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
940,52
|
+3,02
|
-0,68%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
866,29
|
+2,41
|
-0,83%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
|
|
+0,32%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
|
|
+0,28%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
257,25
|
-0,10
|
-0,04%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.699,00
|
-18,00
|
-0,31%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.882,50
|
-6,50
|
-0,34%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.494,00
|
+21,00
|
+0,85%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.225,00
|
-175,00
|
-0,90%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
377,00
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
443,75
|
+0,75
|
+0,17%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
255,00
|
-0,50
|
-0,20%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,07
|
+0,04
|
+0,32%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
937,75
|
-1,25
|
-0,13%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
301,60
|
-0,20
|
-0,07%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,49
|
-0,07
|
-0,21%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
481,80
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.075,00
|
+19,00
|
+0,92%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
127,75
|
-0,90
|
-0,70%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,85
|
-0,17
|
-1,21%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
140,25
|
-0,80
|
-0,57%
|
Bông
|
US cent/lb
|
70,77
|
-0,18
|
-0,25%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
368,00
|
-0,90
|
-0,24%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
195,60
|
+0,10
|
+0,05%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,55
|
-0,02
|
-1,09%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg