Trên thị trường năng lượng, giá dầu thế giới đi lên theo xu hướng của thị trường chứng khoán Mỹ trong bối cảnh các nước xuất khẩu dầu mỏ chủ chốt (OPEC+) cắt giảm sản lượng theo thỏa thuận.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 0,68 USD lên 61,32 USD/thùng, trong khi đó dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 0,20 USD lên 52,31 USD/thùng.
Các chỉ số chính trên thị trường Phố Wall chạm mức cao nhất trong một tháng, qua đó thúc đẩy giá dầu. Giá “vàng đen” nhiều khi chuyển động theo những diễn biễn trên thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, giá dầu còn được hỗ trợ bởi thỏa thuận của các nước trong và ngoài OPEC cắt giảm sản lượng 1,2 triệu thùng/ngày tổng cộng kể từ tháng Một. Thứ trưởng Năng lượng Nga cho biết nước này sẽ đạt được mục tiêu cắt giảm trong tháng Tư tới.
Tuy nhiên, đà tăng giá của giá dầu bị hạn chế bởi số liệu cho thấy lượng dự trữ các chế phẩm dầu mỏ đang gia tăng tại Mỹ và sản lượng dầu thô đang ở mức cao kỷ lục.
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết sản lượng dầu của nước này đã tăng lên mức cao kỷ lục 11,9 triệu thùng/ngày vào tuần trước, trong khi lượng dầu thô xuất khẩu cũng tăng lên gần 3 triệu thùng/ngày. Số liệu của EIA còn cho thấy lượng dầu dự trữ của Mỹ tăng nhiều hơn dự đoán và đã tăng liên tục trong bốn tuần qua.
Sản lượng dầu thô của Mỹ được dự đoán sẽ vượt ngưỡng 12 triệu thùng/ngày trong năm nay, và nước này sẽ trở thành quốc gia xuất khẩu ròng dầu thô vào cuối năm 2020, theo dự đoán của EIA.
Trên thị trường kim loại quý, giá cũng tăng do giới đầu tư lo ngại những bất ổn xung quanh việc Anh rời EU sẽ càng gây áp lực khiến kinh tế thế giới yếu đi.
Vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.292,51 USD/ounce, trong khi vàng giao sau tăng 0,4% lên 1.293,80 USD/ounce. Giá palađi tăng lên mức cao mới, 1.358,50 USD/ounce (tăng 3%) do nhu cầu tăng trong khi nguồn cung suy giảm. Palađi đã tăng hơn 60% kể từ giữa tháng 8 năm ngoái, và vượt giá vàng lần đầu tiên trong vòng 16 năm vào tháng 12/2018. Cũng phiên vừa qua, giá bạc giao tháng 3/2019 tăng 0,12% lên 15,638 USD/ounce, trong khi đó giá bạch kim giao tháng Tư tăng 7,8 USD, hay 0,97%, lên 807,9 USD/ounce.
Sau khi thỏa thuận về Brexit mà Thủ tướng Anh Theresa May đã đạt được với EU bị bác bỏ trong cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội nước này tối 15/1/2019, các nhà đầu tư đã tìm đến những tài sản an toàn như vàng. Mặc dù bà May đã vượt qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm vào ngày 16/1/2019, nhưng bất ổn chính trị và khả năng Brexit không đạt được thỏa thuận tiếp tục hỗ trợ giá vàng.
Các doanh nghiệp Anh đã hối thúc chính phủ của bà May nhanh chóng hành động để đưa ra "Kế hoạch B" nhằm tránh một Brexit hỗn loạn.
Trong khi đó, việc Chính phủ liên bang Mỹ đóng cửa một phần kéo dài cũng tạo lực đẩy cho giá vàng, bởi các nhà kinh tế Mỹ nhận định việc Chính phủ đóng cửa một phần hoạt động trong nhiều ngày có thể gây tổn thương phần nào cho nền kinh tế Mỹ, và điều đó có thể làm thay đổi lộ trình nâng lãi suất của nước này, buộc Fed phải kiên nhẫn hơn nữa trong lần quyết định tiếp theo về lãi suất. Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi đã đề nghị Tổng thống President Donald Trump hoãn đọc Thông điệp liên bang hoặc phát đi dưới hình thức văn bản, do việc đóng cửa chính phủ.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel vừa tăng lên mức cao chưa từng có trong vòng 10 tuần do dự trữ giảm. Nickel giao sau 3 tháng trên sàn London phiên vừa qua có lúc đạt 11.770 USD/tấn (cao nhất kể từ 8/11/2018) trước khi giảm trở lại vào cuối phiên để chốt ở mức 11.630 USD/tấn, thấp hơn 0,4% so với cuối phiên trước. Giá hợp đồng giao ngay tuần này đã tăng mạnh, làm cho khoảng cách giữa hợp đồng giao ngay và hợp đồng giao sau tăng mạnh, từ 9 USD/tấn lên 67 USD/tấn.
Lượng nickel lưu kho trên sàn London hiện khoảng 200.000 tấn, so với 360.000 tấn hồi đầu năm 2018, và là mức thấp nhất kể từ giữa 2013. Tuy nhiên, nhà phân tích Oliver Nugent thuộc Citibank dự báo thị trường nickel chắc chắn sẽ cân bằng trong năm 2019 sau khi thiếu hụt khoảng 40.000 tấn năm 2018, và dự báo giá sẽ khoảng 11.500 USD/tấn vào cuối năm nay.
Các kim loại khác như đồng, nhôm, kẽm và chì cũng đồng loạt tăng lên, chỉ riêng thiếc sụt giảm.
Thép thanh trên sàn Thượng Hải vững ở mức 3.534 CNY/tấn, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,4% lên 3.435 CNY/tấn.
Liên minh châu Âu sau cuộc bỏ phiếu ngày 16/1/2019 đã quyết định tiếp tục hạn chế nhập khẩu thép, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tăng mạnh thuế nhập khẩu thép vào thị trường Mỹ khiến cho nguồn cung thép tại EU tăng mạnh (vì xuất khẩu sang Mỹ gặp khó).
Theo kết quả bỏ phiếu, tất cả các nước thành viên EU ủng hộ kế hoạch "áp các biện pháp bảo vệ", sẽ có hiệu lực từ đầu tháng 2/2019 (tháng 7/2018 khối này đã áp thuế nhập khẩu tạm thời đối với 23 sản phẩm thép trong thời hạn tới 4/2/2019).
Như vậy, tất cả các mặt hàng thép nhập khẩu vào EU sẽ phải chịu mức thuế trần cho đến tháng 7/2019. Cụ thể, thép nhập khẩu sẽ được áp hạn ngạch dựa theo mức nhập khẩu trung bình của 3 năm qua, cộng thêm 5%. Trong trường hợp vượt qua hạn ngạch thì sẽ phải chịu thuế 25%. Ngoài ra cũng có quy định về giới hạn riêng cho các nước xuất khẩu chủ chốt, theo đó hạn ngạch sẽ được áp dụng trong giai đoạn 3 tháng để giới hạn lượng tồn kho, và có thể được điều chỉnh tăng 5% mỗi năm.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 3/2019 tăng 1,1 US cent tương đương 1,1% lên 1,024 USD/lb sau khi sụt giảm mạnh ở phiên trước đó. Robusta cũng tăng 12 USD tương đương 0,8% lên 1.539 USD/tấn.
Các nhà khoa học quốc tế vừa đưa ra cảnh báo biến đổi khí hậu và nạn phá rừng đã khiến hơn một nửa các giống cà phê tự nhiên trên toàn cầu có nguy cơ tuyệt chủng, bao gồm cả các loại cà phê thương mại nổi tiếng như Arabica và Robusta.
Giá đường tăng do các quỹ đầu tư mua nhiều. Đường thô giao tháng 3 tới tăng 0,01 US cent tương đương 0,1% lên 13,07 US cent/lb vào cuối phiên, sau khi có lúc đạt 13,27 US cent, cao nhất kể từ 5/11/2018. Giá dầu tăng góp phần khích lệ nhà đầu tư mua đường vào, và đồng real mạnh lên cũng làm cho đường thô đắt giá hơn. Ngoài ra, thời tiết khô ở vùng Trung Nam Brazil gây lo ngại ảnh hưởng đến nguồn cung.
Trái với đường thô, đường trắng giao tháng 3 giảm nhẹ 1 USD tương đương 0,3% xuống 353,8 USD/tấn.
Giá ngô tăng trở lại do hoạt động mua mạnh sau khi giá giảm thấp. Ngô giao tháng 3 trên sàn Chicago tăng up 2-3/4 US cent lên 3,74 USD/bushel. Các nhà nhập khẩu Hàn Quốc đã mua khoảng 260.000 tấn ngô trong mấy phiên đấu thầu ngày 16/1/2019, phần lớn xuất xứ Mỹ.
Lúa mì và đậu tương cũng hồi phục từ mức thấp nhất 2 tuần bởi lo ngại thời tiết nóng và khô ở nhiều nơi thuộc Brazil cũng như mưa nhiều ở Argentina có thể còn tiếp diễn trong tháng này. Đậu tương giao tháng 3 giá tăng 1-1/4 US cent lên 8,94-1/2 USD/bushel, trong khi lúa mì cùng kỳ hạn tăng 1-1/2 US cent lên 5,12-1/2 USD/bushel.
Giá lợn sống (loại siêu nạc) trên sàn Chicago đã giảm 3,7% trong phiên vừa qua, xuống mức thấp nhất 2 tháng, do lượng bán ra mạnh.
Lợn kỳ hạn giao tháng 2/2019 giá giảm mạnh nhất kể từ 6/11/2018, giảm 2.100 US cent xuống 60.050 US cent/lb.
Trái với lợn, giá trâu bò tăng mạnh do dự báo thời tiết mùa Đông khắc nghiệt ở Mỹ sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của gia súc cũng như việc vận chuyển các loại động vật (trọng lượng mỗi con giảm sẽ kéo theo sản lượng chung sụt giảm).
Giá bò sống kỳ hạn giao tháng 2 có lúc đạt 127,950 US cent/lb, trước khi kết thúc phiên ở 127,825 US cent, tăng 0,875 US cent so với phiên trước đó.
Giá cao su tăng bởi các nhà đầu tư kỳ vọng những chương trình kích thích kinh tế mới của Trung Quốc có thể thúc đẩy kinh tế của thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất thế giới. Dầu mỏ tăng cũng góp phần kéo cao su tăng theo.
Cao su kỳ hạn giao tháng 6/2019 trên sàn Chicago tăng 0,8 JPY tương đương 0,4% lên 183,6 JPY (1,69 USD)/kg. Hợp đồng giao tháng 5/2019 trên sàn Thượng Hải cũng tăng 120 CNY lên 11.640 CNY (1.732 USD)/tấn.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã bơm kỷ lục 83 tỷ USD vào hệ thống tài chính trong ngày 16/1/2019 để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tiền mặt – có thể làm suy yếu thêm nền kinh tế vốn đang gặp khó. Các nhà hoạch định chính sách nước này cam kết sẽ hành động mạnh mẽ hơn để thúc đẩy thị trường việc làm trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế chậm lại ở mức thấp nhất 28 năm.

Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,31

+0,20

+0,40%

Dầu Brent

USD/thùng

61,32

+0,68

+1,17%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

40.440,00

+410,00

+1,02%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

52,32

+0,21

+0,40%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

141,69

+0,55

+0,39%

Dầu đốt

US cent/gallon

189,33

+2,11

+1,13%

Dầu khí

USD/tấn

571,00

+13,25

+2,38%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56.080,00

+260,00

+0,47%

Vàng New York

USD/ounce

1.293,80

+5,40

+0,42%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.520,00

+35,00

+0,78%

Bạc New York

USD/ounce

15,64

+0,02

+0,12%

Bạc TOCOM

JPY/g

54,40

-0,40

-0,73%

Bạch kim

USD/ounce

806,76

-0,08

-0,01%

Palađi

USD/ounce

1.364,62

-1,52

-0,11%

Đồng New York

US cent/lb

267,35

+3,90

+1,48%

Đồng LME

USD/tấn

5.920,00

+23,00

+0,39%

Nhôm LME

USD/tấn

1.845,00

+17,00

+0,93%

Kẽm LME

USD/tấn

2.456,00

+28,00

+1,13%

Thiếc LME

USD/tấn

20.670,00

+195,00

+0,95%

Ngô

US cent/bushel

374,00

+2,75

+0,74%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

512,50

+1,50

+0,29%

Lúa mạch

US cent/bushel

295,50

+3,00

+1,03%

Gạo thô

USD/cwt

10,47

+0,09

+0,82%

Đậu tương

US cent/bushel

894,50

+1,25

+0,14%

Khô đậu tương

USD/tấn

310,10

+0,80

+0,26%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,23

-0,01

-0,04%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

479,40

+3,60

+0,76%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.322,00

+48,00

+2,11%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

102,40

+1,10

+1,09%

Đường thô

US cent/lb

13,17

+0,01

+0,08%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

120,90

-0,50

-0,41%

Bông

US cent/lb

73,27

+0,91

+1,26%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

361,50

+8,10

+2,29%

Cao su TOCOM

JPY/kg

182,70

-0,90

-0,49%

Ethanol CME

USD/gallon

1,26

-0,01

-0,79%

Nguồn: VITIC/Bloomberg. Reuters. CafeF

Nguồn: Vinanet