Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh xuống mức thấp nhất 7 tháng trong bối cảnh có thêm các dấu hiệu cho thấy sản lượng dầu thô gia tăng tại Mỹ , Libya và Nigeria.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ WTI giao tháng 7/2017 trên sàn New York giảm 54 US cent (1,2%) xuống còn 44, 20 USD/thùng, mức giá đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 14/11/2016. Hợp đồng mua bán dầu giao tháng 7/2017 đáo hạn vào ngày 20/6. Giá dầu Brent giao tháng 8/2017 trên sàn London giảm 46 US cent (tương đương 1 %) xuống còn 46, 91 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 29/11/2016, một ngày trước khi OPEC nhất trí cắt giảm sản lượng trong sáu tháng đầu của năm 2017.
Giá cả 2 loại đều đã giảm giá hơn 15% kể từ cuối tháng 5/2017, khi các nước sản xuất dầu mỏ do OPEC dẫn đầu nhất trí gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng bớt 1,8 triệu thùng/ngày thêm chín tháng nữa (cho đến tháng 3/2018).
Nguồn cung dầu của OPEC trong tháng Năm lại bật tăng đáng kể do sản lượng dầu mỏ của Libya và Nigeria, hai nước được miễn tham gia thỏa thuận cắt giảm sản lượng, đồng loạt phục hồi. Sản lượng dầu của Libya đã tăng hơn 50.000 thùng/ngày. Ngoài ra, sản lượng dầu của Mỹ không ngừng tăng cao cũng khiến tình trạng dôi dư nguồn cung dầu toàn cầu chưa thể cải thiện. Báo cáo hàng tuần của công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes cho hay, số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ trong tuần trước đã tăng thêm 6 giàn khoan, lên 747 chiếc, đánh dấu tuần tăng thứ 22 liên tiếp.
Trong khi đó, giới phân tích cho rằng sản lượng dầu thô đang gia tăng của Mỹ đang làm người ta quan ngại về tình trạng dư cung dầu trên thế giới. Số liệu công bố ngày 16/6 vừa qua cho thấy số giàn khoan dầu đang hoạt động ở Mỹ đã tăng tuần thứ 22 liên tiếp.
Hiện giới đầu tư đang tập trung vào các dấu hiệu cho thấy nguồn cung dầu đang đầy lên, qua đó gây ảnh hưởng tiêu cực tới nỗ lực cắt giảm sản lượng của các nước trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC).
Cuối tháng 5/2017, khi OPEC và một số nước nằm ngoài tổ chức này, trong đó có Nga, nhất trí nới dài thời hạn thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng thêm chín tháng, giá hai loại dầu chủ chốt trên đã hạ khoảng 15%.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống gần mức thấp nhất 5 tuần qua do đồng USD mạnh lên sau bình luận của một quan chức hàng đầu của Fed ủng hộ việc nâng lãi suất.
Tuy nhiên, bất ổn xung quanh các cuộc đàm phán về các điều khoản để nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU), hay còn gọi là Brexit, đã phần nào hạn chế đà giảm của giá vàng.
Đóng cửa phiên giao dịch tại New York, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống còn 1.244,85 USD/ounce, sau khi đã có thời điểm giảm xuống dưới mức bình quân của 100 ngày là 1.244,27 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 17/5. Trong khi đó, giá vàng Mỹ giao tháng 8 giảm 0,8% và được giao dịch ở mức 1.246,70 USD/ounce.
Giá vàng trong phiên này còn chịu tác động khi quỹ giao dịch vàng lớn thế thế giới SPDR Gold Trust cho biết lượng vàng mà quỹ này nắm giữ đã giảm 1,5% trong tuần trước, mức đưa ra thị trường tính theo tuần nhiều nhất trong ba tháng qua.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chi nhánh New York William Dudley nhận định rằng lạm phát của Mỹ có hơi thấp song sẽ tăng lên theo tiền lương khi thị trường lao động cải thiện, qua đó cho phép Fed tiếp tục thắt chặt dần chính sách tiền tệ.
Giá vàng luôn nhạy cảm với chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, đồng thời làm đồng USD tăng giá khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Tuy nhiên, kết quả cuộc tổng tuyển cử ở nước Anh vừa qua, cùng với các cuộc đàm phán Brexit bắt đầu vào ngày 19/6 tại Brussels, đã làm dấy lên những bất ổn chính trị vốn có lợi cho giá vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,3% xuống 16,54 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,6% và được giao dịch ở mức 918,55 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê robusta giao tháng 9 giảm 17 USD tương đương 0,8% xuống 2.108 USD/tấn từ mức cao nhất 2 tháng là 2.149 USD/tấn đạt được trong tuần qua. Arabica giao cùng kỳ hạn tăng 0,65 US cent tương đương 0,5% lên 1,266 USD/lb. Mức cộng arabica so với robusta đã len trên 30 US cent/lb, từ mức thấp nhất 3 năm rưỡi là 29,6 US cent ngày thứ 6 tuần trước.
Citi Research cho biết lý do bởi dự trữ arabica tăng và lo ngại về nguồn cung robusta ở Việt Nam.
Với thị trường đường, giá đường thô giao tháng 10 tăng 0,04 US cent tương đương 0,3% lên 13,67 US cent/lb, nhưng vẫn gần mức thấp nhất 16 tháng là 13,50 US cent của phiên thứ 6 tuần trước. Đường trắng giao tháng 8 giá tăng 3,1 USD tương đương 0,8% lên 402,60 USD/tấn.
Thị trường ngũ cốc tiếp tục chú ý tới hiện tượng giá lúa mì tăng do tình trạng thời tiết khô nóng dự kiến diễn ra ở các khu vực gieo trồng lúa mỳ ở Mỹ và một số nước châu Âu. Trong lúc giới phân tích cho rằng hoạt động mua vào của các quỹ đóng vai trò quan trọng trong việc làm lúa mỳ tăng giá khá mạnh trong hai ngày vừa qua.
Bộ Nông nghiệp Mỹ mới thông báo về thương vụ xuất khẩu 120.000 tấn ngô sang Mexico trong mùa vụ mới, qua đó góp phần đẩy giá ngô kỳ hạn tăng lên. Còn đậu tương giao theo hợp đồng kỳ hạn vẫn vững giá trong bối cảnh nhu cầu đối với loại nông sản là tương đối cao.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
44,20
|
-0,54
|
-1,2%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
46,91
|
-0,46
|
-1%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
32.800,00
|
0,00
|
0,00%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,89
|
0,00
|
0,00%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
145,50
|
+0,44
|
+0,30%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
141,34
|
+0,23
|
+0,16%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
421,25
|
-2,75
|
-0,65%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
46.460,00
|
+50,00
|
+0,11%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.246,50
|
-0,20
|
-0,02%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.463,00
|
+1,00
|
+0,02%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,53
|
+0,03
|
+0,17%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,60
|
+0,10
|
+0,17%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
928,02
|
+2,98
|
+0,32%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
865,18
|
+1,85
|
+0,21%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
259,35
|
-1,25
|
-0,48%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.724,00
|
+61,00
|
+1,08%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.886,50
|
+19,50
|
+1,04%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.556,00
|
+29,00
|
+1,15%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.550,00
|
-90,00
|
-0,46%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
384,75
|
+1,50
|
+0,39%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
486,75
|
+3,75
|
+0,78%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
268,50
|
+0,25
|
+0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,77
|
-0,04
|
-0,34%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
949,00
|
+0,50
|
+0,05%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
306,70
|
-0,60
|
-0,20%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,43
|
+0,03
|
+0,09%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
490,00
|
+0,30
|
+0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.934,00
|
-94,00
|
-4,64%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
126,60
|
+0,65
|
+0,52%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,67
|
+0,04
|
+0,29%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
139,00
|
-2,75
|
-1,94%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,82
|
-0,22
|
-0,32%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
368,20
|
+4,80
|
+1,32%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
193,70
|
-1,50
|
-0,77%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,56
|
-0,02
|
-1,27%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg