Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 2 tháng sau khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu do quan ngại về ảnh hưởng của sự kiện cử tri Vương quốc Anh bỏ phiếu rời khỏi Liên minh châu Âu (EU), hay còn gọi là Brexit.
Trên thị trường New York, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 8/2016 giảm 59 US cent xuống 44,65 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ giữa tháng Năm. Tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 9 cũng giảm 30 US cent và đóng cửa phiên này ở mức 46,66 USD/thùng.
Hôm qua 19/7, Viện Dầu mỏ Mỹ (API) cho biết, theo số liệu của Viện, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 15/7 giảm 2.3 triệu thùng trong khi dự trữ xăng tăng 800.000 thùng và nguồn cung sản phẩm chưng cất giảm 500.000 thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) hôm nay sẽ công bố số liệu về lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 15/7. Các nhà phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal dự đoán lượng dầu lưu kho của Mỹ tuần qua giảm 1,7 triệu thùng, trong khi dự trữ xăng giảm 100.000 thùng và nguồn cung sản phẩm chưng cất, kể cả diesel và dầu sưởi, tăng 700.000 thùng.
Theo số liệu điều chỉnh mới nhất, kinh tế thế giới ước tăng trưởng 3,1% trong năm 2016 và 3,4% trong năm 2017. Hai con số này đều thấp hơn 0,1% so với dự báo của IMF đưa ra hồi tháng Tư. Kinh tế tăng trưởng chậm có khả năng đe dọa sự phục hồi của nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ.
Thị trường “vàng đen” tiếp tục diễn biến ảm đạm trong phiên thứ hai liên tiếp, sau khi tâm lý lo ngại về vụ đảo chính tại Thổ Nhĩ Kỳ lắng xuống.
Theo các nhà phân tích, tình trạng thừa cung dầu thô toàn cầu - từng khiến giá dầu lao dốc trong năm 2014 và 2015 - đã được các nhà máy lọc dầu chuyển thành thừa cung xăng và sản phẩm nhiên liệu khác. Giá xăng thường tăng trong mùa lái xe đi du lịch mùa hè nhưng cũng không thể kéo giảm thừa cung xăng.
Moody's nhận định các nhân tố như: dự trữ dầu mỏ trên quy mô toàn cầu vẫn đang ở mức rất cao, tác động tiềm năng của hoạt động xuất khẩu dầu mỏ đang gia tăng của Iran, cuộc cạnh tranh giành thị phần giữa Saudi Arabia và Iran, tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại... có thể khiến giá dầu giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ nhưng khó duy trì đà tăng bởi đang chịu áp lực từ đồng USD mạnh sau những số liệu tích cực về kinh tế Mỹ.
Vàng giao ngay giá tăng 0,2% lên 1,331,1 USD/ounce, rơi khỏi đỉnh cao nhất phiên ở 1,334,88 USD/ounce. Vàng giao tháng 8/2016 tăng 0,2% lên 1,332,3 USD/ounce.
Dù được hưởng lợi nhờ diễn biến ảm đạm trên thị trường chứng khoán, giá vàng thế giới chỉ tăng nhẹ do ảnh hưởng của "đồng bạc xanh" lập đỉnh của 4 tháng trước thông tin tích cực phát đi từ thị trường bất động sản Mỹ.
Cùng phiên, đà tăng điểm trên các thị trường chứng khoán có phần giảm nhiệt khi nhà đầu tư nhận được các báo cáo doanh thu yếu kém của một số doanh nghiệp và xuất hiện dấu hiệu cho thấy tác động tiêu cực từ quyết định rời Liên minh châu Âu (EU) của Vương quốc Anh đối với các nền kinh tế khác.
Tính từ đầu năm đến nay, giá kim loại quý này đã tiến thêm gần 25% và đạt 1.374,71 USD/ounce - mức cao nhất kể từ tháng 3/2014 sau khi cử tri Vương quốc Anh bỏ phiếu rời EU.
Tuy nhiên, hàng loạt số liệu tích cực phát đi từ cường quốc số 1 thế giới đã củng cố thêm khả năng tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, và gây áp lực giảm giá lên kim loại quý này.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,8% xuống 19,87 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,4% xuống 1.088,35 USD/ounce trong khi đó giá palladium tăng 1,63% lên 654 USD/ounce.
Nhà đầu tư hiện đang dồn sự chú ý vào kết quả cuộc họp của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), diễn ra vào ngày 21/7, để tìm kiếm thêm manh mối cho xu hướng đầu tư.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt giảm. Tại London, Robusta giảm 2-3 USD/tấn, trong khi đó tại New York, arabica giảm 2,7-2,9 US cent/lb.
I&M Smith cho biết, lo ngại về thiệt hại do sương giá lắng dịu vì hiện tượng này chỉ rải rác chứ không lan rộng.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
44,65
|
-0,59
|
-1,3%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
46,66
|
-0,30
|
-0,6%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
29.770,00
|
-40,00
|
-0,13%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,72
|
-0,01
|
-0,40%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
137,50
|
-0,07
|
-0,05%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
138,29
|
-0,12
|
-0,09%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
407,00
|
-2,25
|
-0,55%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
41.790,00
|
+50,00
|
+0,12%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.332,20
|
+0,10
|
+0,01%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.505,00
|
+12,00
|
+0,27%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,97
|
-0,04
|
-0,21%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
67,50
|
+0,20
|
+0,30%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.089,38
|
-3,32
|
-0,30%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
654,20
|
-2,90
|
-0,44%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
224,30
|
-2,00
|
-0,88%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.984,00
|
+45,00
|
+0,91%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.647,00
|
-12,00
|
-0,72%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.243,00
|
+25,00
|
+1,13%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.700,00
|
-225,00
|
-1,26%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
349,50
|
+1,00
|
+0,29%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
418,25
|
+0,25
|
+0,06%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
205,75
|
+3,00
|
+1,48%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,83
|
+0,04
|
+0,37%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.025,25
|
-2,50
|
-0,24%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
354,20
|
-1,60
|
-0,45%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,23
|
+0,05
|
+0,16%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
465,50
|
+2,10
|
+0,45%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.998,00
|
-87,00
|
-2,82%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
146,55
|
-2,90
|
-1,94%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,36
|
-0,01
|
-0,05%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
182,85
|
-1,60
|
-0,87%
|
Bông
|
US cent/lb
|
72,34
|
-0,93
|
-1,27%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
325,70
|
-2,60
|
-0,79%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
159,10
|
+0,90
|
+0,57%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,51
|
-0,04
|
-2,64%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg