Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất 3 tháng khi khi lượng dầu lưu kho của Mỹ bất ngờ tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 9/2016 trên sàn New York giảm 78 cent, tương ứng 1,9%, xuống 41,14 USD/thùng. Giá dầu Brent giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 77 cent, tương đương 1,8%, xuống 42,70 USD/thùng.
Tâm lý bi quan tăng lên khi hãng tư vấn Genscape hôm 28/7 công bố số liệu cho thấy, lượng dầu lưu kho tại Cushing, Oklahoma, trong tuần kết thúc vào 26/7 tăng 328.000 thùng.
Đà giảm của giá dầu bắt đầu từ hôm 27/7 sau khi số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 22/7 tăng 1,7 triệu thùng, dự trữ xăng tăng 500.000 thùng.
Tính từ đầu tuần này, cả giá dầu Brent và WTI đều giảm 6% khi thừa cung xăng khiến giới đầu tư lo ngại nhu cầu dầu thô sẽ suy yếu trong những tháng tới.
Giá dầu WTI đã giảm 19,7% so với mức đỉnh của năm 2016 ở 51,23 USD/ounce ghi nhận hôm 8/6. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, giá dầu WTI vẫn tăng 11% sau khi chạm đáy 26,21 USD/ounce hồi tháng 2.
Giới phân tích cho rằng nếu các nhà máy lọc dầu giảm công suất do lợi nhuận giảm, tình trạng thừa cung dầu thô toàn cầu sẽ trầm trọng hơn.
Hãng tư vấn Energy Aspects cho biết, một số nhà máy lọc dầu của Mỹ đã giảm sản lượng xăng, phần nào kéo giảm tình trạng thừa cung.
Trên thị trường kim loại quý, vàng tiếp tục tăng bởi dư âm kết quả cuộc họp tháng 7 của Fed.
Giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.341,81 USD/ounce sau khi tăng 1,5% trong phiên 27/7 khi Fed công bố thông báo sau phiên họp chính sách. Giá vàng giao tháng 8/2016 trên sàn Comex (New York) tăng 1,1% lên 1.341,1 USD/ounce.
USD trong phiên 28/7 giảm mạnh nhất 2 tháng qua và chứng khoán rơi khỏi đỉnh 9 tháng khi thái độ thận trọng của Fed khiến thị trường hướng sự chú ý đến các biện pháp kích thích của Nhật Bản.
Việc tiếp tục tăng lãi suất của Fed cho tới nay vẫn chỉ là kế hoạch đã giúp giá vàng lại lên cao nhất 2 tuần trong phiên 27/7.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) sẽ thông báo quyết định chính sách tiền tệ vào thứ Sáu tuần này. Các nhà kinh tế học dự đoán Nhật Bản sẽ tung ra thêm các biện pháp nới lỏng tiền tệ, cho thấy nền kinh tế nước này tiếp tục gặp khó khăn trong khi khiến giới đầu tư tìm kiếm tài sản trú ẩn an toàn như vàng.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay đi ngang ở 20,33 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,6% lên 1.139,4 USD/ounce trong khi đó giá palladium giảm 0,2% xuống 700,22 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê đồng loạt đảo chiều tăng giá. Robusta trên sàn London tăng 9-14 USD/tấn, trong khi đó Arabica trên sàn New York tăng 0,95-1,05 cent/lb.
Thị trường cà phê Việt Nam hạ nhiệt khi giá cao làm hạn chế nhu cầu mua, bất chấp nguồn cung nội địa giảm và giá tăng tại London, trong khi đó thị trường cà phê Indonesia ổn định.
Cà phê Robusta loại 2, 5% đen vỡ tại Việt Nam - nước sản xuất Robusta lớn nhất thế giới - được chào bán với giá trừ lùi 10-20 USD/tấn so với hợp đồng ICE giao tháng 9.
Giá cà phê Việt Nam lên cao nhất một năm hồi đầu tháng này trong khi sản lượng niên vụ 2016-2017 được dự đoán giảm 20-25%. Giá cà phê tại Việt Nam tăng khi nguồn cung nội địa ngày một giảm vào cuối niên vụ 2015-2016 và trong bối cảnh thời tiết khô hạn nhất trong nhiều thập kỷ.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
41,14
|
-0,78
|
-1,9%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
42,70
|
-0,77
|
-1,8%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
26.970,00
|
-500,00
|
-1,82%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,85
|
-0,02
|
-0,66%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
130,06
|
-0,56
|
-0,43%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
127,04
|
-2,46
|
-1,90%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
377,25
|
-2,50
|
-0,66%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
39.160,00
|
-370,00
|
-0,94%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.345,30
|
+4,10
|
+0,31%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.453,00
|
-25,00
|
-0,56%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,33
|
+0,14
|
+0,68%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
67,60
|
-0,80
|
-1,17%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.136,79
|
+2,69
|
+0,24%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
696,95
|
-1,55
|
-0,22%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
222,20
|
+1,30
|
+0,59%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.896,50
|
+46,50
|
+0,96%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.609,00
|
+17,00
|
+1,07%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.205,00
|
+30,00
|
+1,38%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.775,00
|
+75,00
|
+0,42%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
339,50
|
+0,75
|
+0,22%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
411,25
|
+1,00
|
+0,24%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
197,25
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,78
|
+0,01
|
+0,10%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
981,50
|
+3,50
|
+0,36%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
341,60
|
+0,80
|
+0,23%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,14
|
+0,16
|
+0,53%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
451,00
|
-0,20
|
-0,04%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.850,00
|
-7,00
|
-0,25%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
142,15
|
+0,95
|
+0,67%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,80
|
-0,30
|
-1,57%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
179,80
|
-10,00
|
-5,27%
|
Bông
|
US cent/lb
|
72,95
|
-0,09
|
-0,12%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
325,70
|
-2,60
|
-0,79%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
156,00
|
-1,60
|
-1,02%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,42
|
-0,02
|
-1,11%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg