Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh nhất 3 tuần sau số liệu cho thấy nguồn cung xăng của Mỹ giảm.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 9/2016 trên sàn New York tăng 1,32 USD, tương ứng 3,3%, lên 40,83 USD/thùng, ghi nhận mức tăng lớn nhất kể từ 12/7 và giúp giá dầu Mỹ thoát khỏi xu hướng giảm kéo dài nhiều ngày. Giá dầu Brent giao tháng 10/2016 trên sàn London tăng 1,3 USD, tương đương 3,1%, lên 43,10 USD/thùng, chấm dứt mạch giảm 5 phiên liên tiếp.
Việc giá giảm mạnh trong mấy ngày qua đã thu hút giới đầu tư quay lại với thị trường dầu bởi dự tính sau giai đoạn giảm giá sẽ hồi phục. Số liệu về nguồn cung tăng càng củng cố quan điểmnày.
Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố hôm 3/8, nguồn cung xăng của Mỹ trong tuần kết thúc vào 29/7 giảm 3,3 triệu thùng so với dự đoán giảm 300.000 thùng của các nhà phân tích. Nguồn cung xăng đã thu hút sự chú ý đặc biệt của giới đầu tư trong những tuần gần đây khi dự trữ luôn đứng ở mức kỷ lục.
Tuy nhiên, EIA cho biết mặc dù nguồn cung xăng giảm, nhưng tổng nguồn cung sản phẩm dầu mỏ của Mỹ trong tuần qua vẫn tăng 2,1 triệu thùng, đẩy lượng lưu kho thương mại lên 1,4 tỷ thùng. Trong khi đó, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 29/7 tăng 1,4 triệu thùng, trái ngược với dự đoán giảm 900.000 thùng của các nhà phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal; dự trữ sản phẩm chưng cất, kể cả diesel và dầu sưởi, tăng 1,2 triệu thùng, trái ngược với dự đoán giảm 100.000 thùng.
Nguồn cung dầu thô toàn cầu vẫn tiếp tục tăng. Xuất khẩu và sản lượng dầu thô của Nga trong tháng 7/2016 tăng tháng thứ 24 liên tiếp, theo số liệu của hãng tư vấn Energy Aspects.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng quay đầu giảm khỏi mức cao nhất 3 tuần do USD hồi phục sau số liệu tích cực về kinh tế Mỹ.
Giá vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.357,96 USD/ounce, giá vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex (New York) giảm 0,6% xuống 1.364,70 USD/ounce.
USD hồi phục từ mức đáy 6 tuần ghi nhận hôm 2/8, tăng 0,5% so với các đồng tiền chủ chốt trong giỏ tiền tệ, gây áp lực lên giá vàng.
Bộ Lao động Mỹ cho biết lĩnh vực tư nhân của Mỹ trong tháng 7 đã tạo thêm 179.000 việc làm mới, cao hơn so với ước tính 170.000 việc làm của các nhà kinh tế học. Số liệu điều chỉnh việc làm của lĩnh vực tư nhân trong tháng 6 cũng tăng lên 176.000 việc làm so với 172.000 công bố trước đó.
Từ đầu năm đến nay, giá vàng đã tăng 28% do đồn đoán Fed sẽ giữ nguyên lãi suất trong năm nay.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,1% xuống 20,39 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,4% xuống 1.158,95 USD/ounce và giá palladium giảm 0,7% xuống 709,50 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê duy trì quanh mức thấp nhất nhiều tuần mặc dù thị trường vẫn được hỗ trợ bởi nguồn cung khan hiếm. Arabica kỳ hạn giao tháng 9/2016 trên sàn New York giá giảm 0,85 US cent hay 0,6% xuống 1,404 USD/lb. Robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London giá tăng 1 USD hay 0,05% lên 1.827 USD/tấn.
Cacao trên sàn New York giá tăng mạnh 100 USD/tấn, mạnh nhất trong vòng 6 tháng do hoạt động mua đầu cơ mạnh mẽ sau khi giá tăng vượt ngưỡng kỹ thuật.
Trong khi đó, đường thô chỉ nhỉnh chút ít so với mức thấp nhiều tháng trong bối cảnh Brazil đang tích cực thu hoạch và ép mía.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,83

+1,32

+3,3%

Dầu Brent

USD/thùng

43,10

+1,3

+3,1%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

26.380,00

+1.020,00

+4,02%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,84

+0,00

+0,04%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

135,05

+0,06

+0,04%

Dầu đốt

US cent/gallon

129,69

+0,94

+0,73%

Dầu khí

USD/tấn

375,50

+5,75

+1,56%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

38.490,00

+890,00

+2,37%

Vàng New York

USD/ounce

1.364,60

-0,10

-0,01%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.392,00

-19,00

-0,43%

Bạc New York

USD/ounce

20,37

-0,10

-0,49%

Bạc TOCOM

JPY/g

65,90

-0,90

-1,35%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.162,75

-0,70

-0,06%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

711,85

-0,80

-0,11%

Đồng New York

US cent/lb

219,55

-0,30

-0,14%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4.875,00

-17,00

-0,35%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.642,00

+17,00

+1,05%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.273,00

-2,00

-0,09%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

17.925,00

-65,00

-0,36%

Ngô

US cent/bushel

335,50

+0,50

+0,15%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

411,25

+1,00

+0,24%

Lúa mạch

US cent/bushel

189,00

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

9,55

-0,02

-0,21%

Đậu tương

US cent/bushel

959,50

+4,00

+0,42%

Khô đậu tương

USD/tấn

327,50

+1,10

+0,34%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,90

+0,09

+0,29%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

446,50

+0,50

+0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.993,00

+97,00

+3,35%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

140,40

-0,85

-0,60%

Đường thô

US cent/lb

19,04

-0,01

-0,05%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

172,90

+2,05

+1,20%

Bông

US cent/lb

74,45

+0,16

+0,22%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

315,00

+0,10

+0,03%

Cao su TOCOM

JPY/kg

153,40

+0,40

+0,26%

Ethanol CME

USD/gallon

1,38

+0,01

+0,66%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg