Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 2 tuần do lo ngại nhu cầu nhiên liệu sẽ sụt giảm khi châu Âu và Mỹ đối mặt với số ca mắc COVID-19 mới gia tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giao tháng 11/2020 giảm 1,40 USD (3,3%) xuống 41,03 USD/thùng, giao tháng 12/2020 giảm 3,1% xuống 41,56 USD/thùng; trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,31 USD (3,2%) xuống 39,29 USD/thùng.
Craig Erlam, nhà phân tích cao cấp của trung tâm OANDA cho biết, tình hình dịch COVID-19 đang bùng phát trở lại khiến giá dầu thô sụt giảm mạnh. Nhu cầu dầu mỏ dự kiến sẽ phục hồi chậm và giá "vàng đen" sẽ đi ngang trong những tháng tới và thậm chí có thể trong nhiều năm.
Đến thời điểm hiện tại, đã có hơn một triệu người trên toàn thế giới tử vong vì COVID-19, một cột mốc ảm đạm của đại dịch đã tàn phá nền kinh tế toàn cầu và làm sụt giảm nhu cầu nhiên liệu.
Viện Dầu khí Mỹ và Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ công bố số liệu tồn kho dầu thô của Mỹ, với dự kiến tồn kho dầu thô tăng 1,6 triệu thùng trong tuần trước.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong gần một tuần trước thềm cuộc tranh luận đầu tiên giữa các ứng viên Tổng thống Mỹ.
Cuối phiên giao dich, giá vàng giao ngay tăng 0,9% lên 1.896,96 USD/ounce; vàng kỳ hạn tăng 1,1% lên mức 1.903,20 USD/ounce.
David Meger, Giám đốc mảng giao dịch kim loại tại công ty môi giới đầu tư High Ridge Futures cho biế khi xuất hiện những triển vọng lạc quan hơn cho một gói kích thích, đồng USD có xu hướng suy yếu và qua đó hỗ trợ giá vàng đi lên.
Chỉ số đồng USD – được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này giảm 0,4% xuống 93,8937 khi thị trường chờ đợi cuộc tranh luận đầu tiên giữa Tổng thống Donald Trump và đối thủ từ đảng Dân chủ
Chuyên gia Merger nhận định rằng hiện Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steve Mnuchin và Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi đang dần đi đến sự đồng thuận về các điều khoản trong kế hoạch kích thích thứ hai cho kinh tế Mỹ. Đây rõ ràng là một thông tin hỗ trợ giá vàng đi lên.
Cũng trong ngày 29/9, Chủ tịch Hạ viện Pelosi cho biết bà hy vọng đạt được một thỏa thuận về gói hỗ trợ kinh tế với Nhà Trắng trong tuần này, sau khi có cuộc thảo luận với ông Mnuchin.
Ông James Steel, chuyên gia phân tích thị trường kim loại quý của ngân hàng HSBC cho biết tình hình có thể đang có sự chuyển biến nhẹ và trở lại xu hướng có lợi cho vàng. Theo ông Steel, khi trọng tâm của thị trường chuyển sang các cuộc bầu cử ở Mỹ cùng những bất ổn mà lần bầu cử này mang lại, có vẻ như vàng và bạc đã được bù đắp sau đợt bán tháo lớn của tuần trước.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 2,6% lên 24,33 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 1% lên 887,73 USD/ounce và palađi tăng 2,5% lên 2.311,07 USD/ounce.

Trên thị trường kim loại công nghiệp, gía đồng giảm do tồn kho tại sàn giao dịch kim loại London tăng, nhưng đà giảm bị hạn chế bởi USD suy yếu khi thị trường đợi số liệu sản xuất từ Trung Quốc.

Giá đồng trên sàn giao dịch kim loại LME giảm 0,1% xuống 6.568 USD/tấn. Giá kim loại này đã giảm gần 5% kể từ khi đạt mức cao nhất 27 tháng tại 6.877,5 USD trong tháng này. USD giảm khiến kim loại định giá bằng USD rẻ hơn đối với người mua sử dụng các đồng tiền khác.
Kết quả thăm dò của Reuters cho thấy, giá nhà của Trung Quốc dự kiến tăng nhẹ hơn trong năm nay so với dự kiến, ở tốc độ chậm hơn so với năm ngoái.
Tồn kho đồng trên sàn giao dịch LME ở mức 136.325 tấn, tăng hơn 40% kể từ khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2005 trong tuần trước.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt tiếp tục tăng sau khi công ty khai thác Vale S.A. cho biết họ đang dừng hoạt động tại một nhà máy tại Brazil, mặc dù giao dịch trầm lắng trước đợt nghỉ lễ Quốc khánh Trung Quốc từ 1 tới 8/10.
Thép kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 1,4% lên 780,5 CNY (114,47 USD)/tấn, tăng phiên thứ hai liên tiếp; quặng sắt giao tháng 10 trên sàn giao dịch Singapore tăng 1,1% lên 115,75 USD/tấn, tiếp tục tăng phiên thứ 4 liên tiếp. Thép thanh trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 0,1%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,2%. Thép không gỉ giảm 0,4%.
Việc dừng hoạt động tại nhà máy tuyển quặng Viga của Vale tuân theo lệnh của tòa án sẽ làm giảm sản lượng quặng sắt 11.000 tấn mỗi ngày.
Các nhà chiến lược hàng hóa của ING cho biết việc gián đoạn nguồn cung có thể hỗ trợ trong ngắn hạn với thị trường này (giá đã giảm từ mức cao 6 năm đã chạm tới trong tháng).
Nhu cầu của nhà sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc đặc biệt đối với sản phẩm xây dựng cũng hỗ trợ giá quặng sắt. Tuy nhiên, hỗ trợ như vậy có thể mất đi trong quý 4 do lo lắng về nguồn cung quặng sắt sang Trung Quốc đang lắng xuống, với dự trữ quặng sắt của quốc gia này tại các cảng đạt mức cao nhất trong 6 tháng, theo công ty tư vấn SteelHome.
Một nhà kinh tế tại ngân hàng OCBC, Singapore cho biết cả nguồn cung từ Australia và Brazil vẫn được dự kiến vượt 100 triệu tấn trong tháng này, có thể bổ sung thêm vào dự trữ ở cảng.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) giảm bởi thời tiết thu hoạch thuận lợi tại khu vực Midwest và nhu cầu xuất khẩu sang Trung Quốc giảm.
Giao dịch không ổn định, đậu tương có lúc tăng cao khi các nhà giao dịch thanh toán hợp đồng trước báo cáo hàng quý từ Bộ Nông nghiệp Mỹ. Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 3-1/4 US cent xuống 9,93 USD/bushel sau khi giảm xuống 9,85-3/4 USD, thấp nhất của hợp đồng này kể từ ngày 16/9.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa phiên tăng 0,4 US cent hay 3,2% lên 12,99 US cent/lb, phục hồi sau khi giảm trong phiên trước; đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 4,9 USD hay 1,3% lên 371,9 USD/tấn.
Đồng real phục hồi so với USD, ngăn cản việc bán đường của Brazil bởi lợi nhuận theo đồng nội tệ giảm. Các đại lý cho biết dự trữ đường của Brazil là cao vì nước này đang sản xuất nhiều nhất có thể, mở đường cho một đợt phân phối quy mô lớn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 dao động nhẹ, kết thúc ở mức 1,0955 USD/lb, giá đã giảm mức thấp nhất 2 tháng tại 1,083 USD trong đầu phiên; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 23 USD hay 1,7% xuống 1.304 USD/tấn.
Dự trữ tăng vọt tại Brazil sau một vụ thu hoạch lớn đang gây sức ép cho giá cà phê, mặc dù các báo cáo cho biết mưa gần đây tại nước này thấp hơn mong đợi.
Xuất khẩu cà phê từ Việt Nam trong 9 tháng năm nay dự kiến giảm 1,4% so với năm trước.
Giá cao su Nhật Bản giảm lần đầu tiên trong 4 phiên, sau khi Ngân hàng Thế giới WB dự báo khu vực Châu Á Thái Bình Dương sẽ tăng trưởng thấp nhất trong hơn 5 thập kỷ vì đại dịch virus corona chủng mới.
Hợp đồng cao su giao tháng 3/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 2,5 JPY, hay 1,3% xuống 186,5 JPY/kg.
WB cho biết đại dịch Covid-19 dự báo gây ra tăng trưởng kinh tế ở mức thấp nhất trong hơn 50 năm tại khu vực Đông Á và Thái Bình Dương cũng như Trung Quốc, khoảng 38 triệu người phải đối mặt với tình trạng tái nghèo. Ngân hàng này cũng cho biết tăng trưởng tại khu vực này có thể chỉ 0,9%, tốc độ thấp nhất kể từ năm 1967.

 

Giá hàng hóa thế giới sáng 30/9

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

38,92

-0,37

-0,94%

Dầu Brent

USD/thùng

40,55

-0,48

-1,17%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

27.620,00

-1.000,00

-3,49%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,49

-0,07

-2,89%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

118,40

-1,77

-1,47%

Dầu đốt

US cent/gallon

110,00

-0,90

-0,81%

Dầu khí

USD/tấn

322,75

-2,75

-0,84%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

41.870,00

-1.120,00

-2,61%

Vàng New York

USD/ounce

1.894,80

-8,40

-0,44%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.423,00

+24,00

+0,38%

Bạc New York

USD/ounce

24,06

-0,39

-1,60%

Bạc TOCOM

JPY/g

81,50

+1,60

+2,00%

Bạch kim

USD/ounce

878,47

-8,45

-0,95%

Palađi

USD/ounce

2.324,44

+2,30

+0,10%

Đồng New York

US cent/lb

299,25

+0,25

+0,08%

Đồng LME

USD/tấn

6.579,00

+7,00

+0,11%

Nhôm LME

USD/tấn

1.783,00

+8,00

+0,45%

Kẽm LME

USD/tấn

2.424,50

-7,50

-0,31%

Thiếc LME

USD/tấn

17.459,00

+115,00

+0,66%

Ngô

US cent/bushel

363,75

-1,00

-0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

551,00

+1,50

+0,27%

Lúa mạch

US cent/bushel

277,50

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,48

-0,03

-0,24%

Đậu tương

US cent/bushel

990,50

-2,50

-0,25%

Khô đậu tương

USD/tấn

332,00

+0,10

+0,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,40

-0,29

-0,89%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

511,50

-0,50

-0,10%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.588,00

+1,00

+0,04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

109,55

0,00

0,00%

Đường thô

US cent/lb

13,42

+0,37

+2,84%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

110,80

+3,70

+3,45%

Bông

US cent/lb

65,40

+0,11

+0,17%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

602,20

+23,60

+4,08%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,40

-1,30

-0,94%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

-0,01

-1,15%

 

 

         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg