Giá lúa gạo hôm nay ngày 15/11
Giá lúa gạo hôm nay ngày 15/11 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long giữ ổn định với mặt hàng lúa. Theo đó, tại khu vực An Giang, cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang cho thấy, lúa Đài Thơm 8 dao động quanh mốc 9.000 - 9.200 đồng/kg; lúa IR 504 duy trì ổn định ở mức 8.800 – 9.000 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 9.000 - 9.200 đồng/kg; Nàng hoa 9 dao động quanh mốc 9.000 - 9.300 đồng/kg;; OM 5451 dao động 8.900 - 9.000 đồng/kg; OM 380 dao động quanh mốc 8.600 - 8.800 đồng/kg.
Với lúa nếp, nếp An Giang khô ổn định quanh mức 9.400 - 9.800 đồng/kg; nếp Long An khô ở mức 9.400 - 9.800 đồng/kg.
Trên thị trường gạo, tại các kho xuất khẩu hôm nay giá gạo nguyên liệu không biến động. Theo đó, gạo nguyên liệu OM 5451 xuống còn 13.300 – 13.400 đồng/kg; gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 12.900 – 13.000 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 18, Đài thơm 8 dao động quanh mốc 13.600 – 13.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 dao động quanh mốc 12.650 – 12.750 đồng/kg. Gạo thành phẩm OM 5451 duy trì quanh mức 15.400 – 15.550 đồng/kg.
Tại kênh gạo chợ, giá gạo nguyên liệu OM 18, Đài thơm 8 duy trì ổn định ở mức 14.000 – 14.200 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 5451 dao động quanh mốc 13.700 – 13.900 đồng/kg; gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 13.150 – 13.250 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 ở mức 12.850 – 12.950 đồng/kg.
Tương tự, giá phụ phẩm cũng đi ngang. Theo đó, giá tấm IR 504 ở mức 13.000 – 13.200 đồng/kg; giá cám khô duy trì ổn định ở mức 7.500 - 7.600 đồng/kg.
Ghi nhận tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay giao dịch lúa lai rai, giá lúa các loại tương đổi ổn định. Lúa Đông Xuân tiếp tục được doanh nghiệp đặt cọc với mức giá cao.
Trên thị trường gạo, nguồn gạo về ổn định. Giá gạo nguyên liệu không duy trì giá như hôm qua.
Tại các chợ lẻ, giá gạo Nàng hoa 9 ở mức 19.500 đồng/kg; gạo nàng Nhen dao động quanh mức 26.000 đồng/kg; gạo Jasmine ổn định ở 16.000 - 18.500 đồng/kg; gạo tẻ thường ở mức 12.000 - 14.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 19.500 đồng/kg; gạo sóc thường 16.000 - 17.000 đồng/kg; gạo sóc thái 18.500 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo Nhật 22.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay tiếp tục xu hướng đi ngang. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện giá gạo xuất khẩu 5% tấm ở mức 653 USD/tấn; giá gạo loại 25% tấm dao động quanh mức 638 USD/tấn.
Giá sầu riêng hôm nay ngày 15/11/2023
Giá sầu riêng hôm nay ngày 15/11/2023 được thương lái thu mua tại vườn ở các khu vực miền Tây Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên cho thấy vẫn duy trì ở mức cao. Tùy theo đoạn đường hay khu vực vận chuyển mà giá cả sẽ có sự chênh lệch ít nhiều.
Ghi nhận tại khu vực Tây Nam Bộ, giá sầu riêng hôm nay 15/11/2023 như sau: Giá sầu riêng Ri6 tăng nhẹ 1.000 đồng/kg trong khi giá sầu riêng Thái đi ngang so với cùng thời điểm thu mua hôm trước.
Cụ thể, với mức điều chỉnh tăng 1.000 đồng/kg, giá sầu riêng Ri6 đẹp lựa hiện được thương lái thu mua lần lượt tại mức 100.000 – 106.000 đồng/kg. Trong khi đó, mặt hàng sầu riêng Ri6 mua xô ghi nhận chững giá, hiện ổn định tại mức 95.000 – 100.000 đồng/kg.
Cùng lúc, giá sầu Thái đẹp lựa đi ngang trong khoảng 135.000 - 140.000 đồng/kg và sầu Thái mua xô cũng ổn định trong khoảng 125.000 - 135.000 đồng/kg.
Tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ, giá sầu riêng hôm nay ngày 15/11/2023 như sau: Sầu riêng Ri6 đẹp lựa ghi nhận tăng khoảng 2.000 đồng/kg lên mức 100.000 – 106.000 đồng/kg. Giá sầu Ri6 mua xô tiếp tục giữ nguyên vào phiên sáng nay, hiện được thương lái thu mua tại mức 90.000 – 98.000 đồng/kg.
Sầu Thái đẹp lựa có giá khoảng 130.000 – 135.000 đồng/kg và sầu Thái mua xô có giá khoảng 120.000 – 130.000 đồng/kg, không ghi nhận thay đổi mới so với cùng thời điểm phiên trước.
Đối với khu vực Tây Nguyên, giá sầu riêng hôm nay 15/11/2023 như sau: Sầu riêng Ri6 lựa đẹp lại ghi nhận tăng 1.000 đồng/kg, đạt mức 100.000 – 105.000 đồng/kg. Còn mặt hàng loại mua xô hiện đang giao dịch trong khoảng 90.000 – 98.000 đồng/kg, đi ngang so với trước đó.
Trong khi đó, sầu riêng Thái ở tất cả các chủng loại hiện có giá bán chung mức với khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Giá sầu riêng ổn định ở mức cao là do nguồn cung hạn chế và nhu cầu tiêu thụ ở mức cao vì được tiểu thương và doanh nghiệp thu mua để phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Theo các doanh nghiệp xuất khẩu, vụ sầu riêng tại các tỉnh Tây Nguyên đang gần cuối vụ nên sản lượng giảm dần. Do đó, giá sầu riêng thời gian tới có thể tăng lên. Tây Nguyên là vùng trồng có diện tích lên đến 70.000 ha chiếm khoảng 50% của Việt Nam. Sầu riêng Tây nguyên hấp dẫn thị trường Trung Quốc vì thời điểm này hàng Thái đã hết vụ.
Xuất khẩu sầu riêng năm nay dự tính đạt 2 tỷ USD. Đây cũng là mức kỷ lục nâng thị phần xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam vượt Malaysia và Philippines ở thị trường Trung Quốc.
Sầu riêng Việt ngày càng có lợi thế khi ký được Nghị định thư với Trung Quốc. Ngoài ra, thời gian vận chuyển ngắn, sản phẩm của Việt Nam luôn tươi ngon nên có sức cạnh tranh mạnh so với hàng Thái, Malaysia và Phillipines. Nếu sầu riêng Việt Nam được chăm chút về kỹ thuật, hàng sản xuất ra chất lượng cao sẽ không lo mất thị phần tại Trung Quốc.
Ngoài thị trường Trung Quốc, sầu riêng Việt cũng đang hút khách Mỹ và Canada. 9 tháng đầu năm, sức mua tại 2 thị trường này tăng 2-3 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho thấy nếu như năm 2010, cả nước có 92.000 ha sầu riêng, đến năm nay đã tăng lên 131.000 ha. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của cả nước giai đoạn này là 24,5%.
Giá mít Thái hôm nay ngày 15/11/2023
Giá mít Thái hôm nay 15/11/2023 tại các địa phương khu vực đồng bằng sông Cửu Long không thay đổi so với hôm qua. Hiện giá mít Thái dao động từ 5.000-24.000 đồng/kg tùy vào việc người dân đang ở địa phương nào, bán cho thương lái hay vựa và được phân loại ra sao.
Riêng tại tỉnh Tiền Giang, đa số vựa lớn mua giá mít Nhất với giá 24.000 đồng/kg, mít Kem lớn 22.000 đồng/kg, mít Kem nhì 12.000 đồng/kg, mít Kem ba 8.000 đồng/kg. Còn thương lái vào vườn mua mít Nhất với giá 22.000 đồng/kg, mít Kem lớn 20.000 đồng/kg, mít Kem nhì 10.000 đồng/kg, mít Kem ba 6.000 đồng/kg.
Tại Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang và TP.Cần Thơ, giá mít Thái hôm nay 15/11 cũng không tăng không giảm. Hiện giá mít Thái ở các địa phương này ổn định, chưa thấy có dấu hiệu biến động mạnh về thị trường trong thời gian tới.
Mít Nhất được các vựa ở những địa phương trên thu mua với giá 23.000 đồng/kg, mít Kem lớn 21.000 đồng/kg, mít Kem nhì 11.000 đồng/kg, mít Kem ba 7.000 đồng/kg. Thương lái vào vườn mua mít Nhất với giá 21.000 đồng/kg, mít Kem lớn 19.000 đồng/kg, mít Kem nhì 9.000 đồng/kg, mít Kem ba 5.000 đồng/kg.
Hiện tại các địa phương như Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang và TP.Cần Thơ, mít xô được thương lái mua từ 8.000 - 14.000 đồng/kg (tuỳ vườn). Đối với khu vực Tiền Giang được mua cao hơn 1.000 đồng/kg.
Hiện Tiền Giang là một trong những địa phương có diện tích trồng mít lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long với hơn 15.000 ha, cho năng suất 265 tạ/ha, đạt sản lượng trên 270.000 tấn/năm.
Diện tích trồng mít Thái trong tỉnh Đồng Tháp hiện nay hơn 3.000 ha, trồng nhiều nhất là huyện Tháp Mười, Thanh Bình, Cao Lãnh và huyện Châu Thành.
Nhiều hộ dân ở Đồng bằng sông Cửu Long cho hay, hiện nay thời tiết đang chuyển sang mùa nắng, do đó cần phải trồng rau trai trên vườn mít Thái. Mục đích là giúp giữ ẩm vườn mít, ít hao tốn lượng nước vào thời điểm mùa khô.
Ngoài ra, trồng cỏ rau trai trên vườn mít Thái còn giúp cải tạo đất và không cạnh tranh dinh dưỡng với cây trồng nhiều.
Thời gian qua, nhiều cơ quan chức năng cảnh báo, mùa khô năm nay ở Đồng bằng sông Cửu Long có thể xảy ra khô hạn, nắng gắt kéo dài. Qua đó, sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng.
Vì vậy, ngoài việc trồng rau trai, người dân còn tìm cách trữ nước, phục vụ cho mùa khô tới.
Mít là một trong các loại quả được phép xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Tiềm năng xuất khẩu hàng rau quả, trong đó có mít sang Trung Quốc rất lớn bởi nhu cầu thị trường cao.
Tuy nhiên, Trung Quốc không còn là thị trường dễ tính như nhiều năm trước đây, xu hướng tiêu dùng đã hướng tới chất lượng, mẫu mã sản phẩm và có sự cạnh tranh với trái cây các nước như Thái Lan, Malaysia, Indonesia…

Nguồn: VITIC/Baocongthuong