Năng lượng: Giá dầu tăng 3% do thị trường gia tăng lo ngại về thiếu hụt nguồn cung sau khi Libya thông báo cắt giảm sản lượng trong bối cảnh xung đột ở Trung Đông leo thang.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent tăng 2,41 USD, tương đương 3,05%, lên 81,43 USD/thùng, trong khi dầu WTI của Mỹ tăng 2,59 USD, tương đương 3,5%, lên 77,42 USD/thùng.
Giá cả 2 loại đều tăng hơn 2% vào thứ Sáu tuần trước.
"Hoạt động mua vào trong ngắn hạn có vẻ hợp lý", Dennis Kissler, phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch tại BOK Financial, cho biết, viện dẫn việc căng thẳng ở Trung Đông, tình trạng ngừng sản xuất của Libya và lượng dầu tồn kho thấp tại Cushing, Oklahoma trung tâm lưu trữ chính của Mỹ.
Chính phủ Libya hôm thứ Hai (26/8) đã tuyên bố đóng cửa tất cả các mỏ dầu, tạm dừng sản xuất và xuất khẩu do căng thẳng địa chính trị trong nước.
Theo Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ, sản lượng dầu của Libya trong tháng 7 vào khoảng 1,18 triệu thùng/ngày.
"Rủi ro lớn nhất đối với thị trường dầu mỏ có lẽ là sản lượng dầu của Libya tiếp tục giảm do căng thẳng chính trị trong nước, với nguy cơ sản lượng có thể giảm từ mức hiện tại là 1 triệu thùng/ngày xuống còn 0", nhà phân tích Giovanni Staunovo của ngân hàng Thụy Sĩ UBS cho biết.
Về các cuộc đàm phán ngừng bắn ở Gaza diễn ra tại Cairo, chưa có thỏa thuận nào được đưa ra vào Chủ Nhật, khi cả Hamas và Israel đều không đồng ý với một số thỏa hiệp do các bên trung gian đưa ra, hai nguồn tin an ninh Ai Cập cho biết
Trong khi đó, lượng dầu thô tồn kho tại Cushing, điểm định giá cho hợp đồng dầu thô Mỹ kỳ hạn tương lai, đã giảm xuống mức thấp nhất trong sáu tháng. Theo một cuộc thăm dò của Reuters, dự trữ dầu thô của Mỹ ước tính giảm khoảng 3 triệu thùng vào tuần trước.
Priyanka Sachdeva, nhà phân tích thị trường cấp cao tại Phillip Nova cho biết, các nhà đầu tư vẫn thận trọng trước các hành động của OPEC và các đồng minh, hay OPEC+, vốn có kế hoạch tăng sản lượng vào cuối năm nay.
"Hầu hết các nhà dự báo dầu mỏ đều kỳ vọng mức tăng trưởng nhu cầu dầu năm 2025 sẽ dao động ở khoảng 1 triệu thùng/ngày. Nếu Libya tiếp tục chìm trong một cuộc nội chiến nữa, cán cân năm 2025 có thể sẽ rất giống với năm nay mặc dù sản lượng của Saudi Arabia và Nga tăng lên", Viktor Katona, nhà phân tích dầu thô hàng đầu tại Kpler, cho biết thêm.
Về phía cầu, các dấu hiệu tăng trưởng ảm đạm và rủi ro mới xuất hiện đối với thị trường việc làm ở Mỹ đã làm lu mờ cuộc họp của các nhà hoạch định chính sách toàn cầu tại hội nghị thường niên của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tại Jackson Hole.
Tuy nhiên, Chủ tịch Fed San Francisco Mary Daly hôm thứ Hai cho biết thật khó để tưởng tượng bất cứ điều gì có thể làm chệch hướng khả năng cắt giảm lãi suất vào tháng 9 tới. Lãi suất của Fed hiện tại là 5,25%-5,50%
Kim loại quý: Giá vàng tăng gần đạt mức cao kỷ lục trong bối cảnh thị trường chắc chắn Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 sau những tín hiệu ôn hòa từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và nhu cầu trú ẩn an toàn tăng lên do rủi ro địa chính trị ở Trung Đông.
Vàng giao ngay kết thúc phiên giao dịch tăng 0,3% lên 2.518,47 USD/ounce, chỉ thấp hơn một chút so với mức cao kỷ lục 2.531,60 USD đạt được vào tuần trước. Hợp đồng vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 tăng 0,3% lên 2.555,20 USD.
Peter A. Grant, Phó chủ tịch kiêm Chiến lược gia kim loại cấp cao tại Zaner Metals cho biết, các tín hiệu ôn hòa trong bài phát biểu của ông Powell hôm thứ Sáu và mối quan tâm về nơi trú ẩn an toàn cùng rủi ro địa chính trị ở Trung Đông đang thúc đẩy giá vàng tăng. "Phân tích đồ thị Fibonacci ngắn hạn, tôi dự đoán giá vàng sẽ ở mức 2.539,77 USD và sau đó là 2.597,15 USD", ông Grant nói.
Hôm thứ Sáu, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã xác nhận chuẩn bị bắt đầu cắt giảm lãi suất, nói rằng thị trường việc làm sẽ xấu đi nếu kinh tế tiếp tục hạ nhiệt.
Theo công cụ FedWatch của CME, các nhà giao dịch đều tin rằng lãi suất sẽ được điều chỉnh trong tháng tới, với 69,5% khả năng giảm 25 điểm cơ bản (bp) và 30,5% khả năng giảm 50 bp.
Vàng thỏi, theo truyền thống được coi là hàng rào chống lại rủi ro địa chính trị, có xu hướng phát triển mạnh trong môi trường lãi suất thấp.
"Có thể có một số dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẽ quay trở lại, nhưng ngay cả khi họ không làm vậy, nhu cầu từ các ngân hàng trung ương vẫn khá mạnh bất kể giá cả trong năm nay cao và điều đó sẽ tiếp tục", Grant cho biết.
Nhu cầu vàng tại các nước tiêu thụ hàng đầu là Ấn Độ và Trung Quốc dự kiến sẽ cải thiện trong vài tháng tới.
Giá bạc giao ngay kết thúc phiên vừa qua tăng 0,6% lên 29,98 USD, đạt mức cao nhất trong hơn một tháng. "Nhu cầu bạc trong lĩnh vực công nghiệp có vẻ tương đối mạnh trong năm 2025, đặc biệt là khi nhu cầu từ lĩnh vực quang điện mặt trời có vẻ sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng tốt", các nhà phân tích tại Heraeus cho biết.
Giá bch kim phiên này tăng 0,1% lên 963,80 USD, trong khi palladium giữ nguyên ở mức 963,00 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tại Thượng Hải đã tăng lên mức cao nhất hơn ba tuần vào thứ Hai, được hỗ trợ bởi nhu cầu phục hồi ở Trung Quốc và hy vọng về việc Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Hợp đồng đồng kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) lúc đóng cửa phiên giao dịch tăng 2,2% ở mức 75.170 nhân dân tệ (10.559,22 USD)/tấn, sau khi đầu phiên tăng lên 75.180 nhân dân tệ, mức cao nhất kể từ ngày 1 tháng 8.
Các nhà sản xuất thanh đồng dây ở Trung Quốc đã tăng đơn đặt hàng của họ sau khi giá giảm gần đây và khi khách hàng hạ nguồn - các công ty lưới điện - tăng sản lượng để đáp ứng mục tiêu sản xuất hàng năm, nhà phân tích He Tianyu của CRU cho biết.
Ngành điện là một trong những ngành tiêu thụ đồng lớn nhất.
Mùa tiêu thụ cao điểm của Trung Quốc thường bắt đầu từ giữa tháng 9, có thể bị gián đoạn nếu giá quay trở lại mức 10.000 USD/tấn trên sàn LME hoặc 80.000 NDT một tấn trên sàn SHFE. Giá đồng trên sàn LME phiên thứ Sáu tuần trước đóng cửa ở mức 9.298 USD/tấn. Sàn LME đóng cửa nghỉ lễ vào thứ Hai.
Giá nhôm trên sàn SHFE kết thúc phiên vừa qua tăng 0,5% lên 19.925 NDT/tấn, sau khi đạt 19.990 NDT trước đó, mức cao nhất kể từ ngày 16 tháng 7, do lo ngại về nguồn cung và kỳ vọng cắt giảm lãi suất của Mỹ.
Chủ tịch Fed hôm thứ Sáu đã xác nhận việc bắt đầu cắt giảm lãi suất sắp xảy ra, điều này có thể hỗ trợ nhu cầu kim loại cũng như gây áp lực lên đồng USD, khiến kim loại có tính bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Giá kẽm trên sàn SHFE đạt mức cao nhất kể từ ngày 16 tháng 7, là 24.225 NDT/tấn; thiếc giảm 0,2% xuống 266.290 NDT nhưng vẫn dao động gần mức cao nhất trong một tuần.
Giá niken trên sàn SHFE tăng 1,5% lên 131.350 NDT và chì tăng 2,5% lên 17.830 NDT.
Giá quặng sắt phục hồi lên mức cao nhất gần hai tuần do đồng USD yếu đi và triển vọng nhu cầu thép tăng trong mùa xây dựng cao điểm sắp tới tại Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 3,45% lên 750,5 nhân dân tệ (105,40 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 13 tháng 8.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 4,4% lên 100,3 USD/tấn, cũng là mức cao nhất kể từ ngày 13 tháng 8.
Giá các sản phẩm thép trên sàn Thượng Hải cũng tăng, với thép cây tăng 2,64%, thép cuộn cán nóng tăng 2,72%, thép dây tăng 1,42% và thép không gỉ tăng 0,8%.
USD dao động gần mức thấp nhất tám tháng, sau khi Chủ tịch Fed Jerome Powell hôm thứ Sáu có những lời lẽ ôn hòa, củng cố kỳ vọng về việc Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9, khiến các mặt hàng có giá bằng USD trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Áp lực cung giảm nhẹ với sản lượng trong nước giảm giữa bối cảnh giá quặng giảm, trong khi thị trường gia tăng kỳ vọng về nhu cầu thép ở hạ nguồn trong tháng tới, các nhà phân tích tại Sinosteel Futures cho biết.
Nông sản: Giá ngô Mỹ giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2020 do Mỹ kỳ vọng sẽ có một vụ mùa ngô bội thu và người trồng ngô tiếp tục bán hàng ra một cách mạnh mẽ. Trong khi đó, giá đậu tương tăng nhẹ khi các nhà giao dịch theo dõi đợt nắng nóng ở vùng Trung Tây Mỹ và căng thẳng ở Trung Đông. Giá lúa mì giảm do nguồn cung trên thế giới dồi dào và hoạt động bán ra từ các quỹ hàng hóa.
Kết thúc phiên, hợp đồng ngô giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) giảm 4-1/2 cent xuống 3,86-1/2 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm 2020. Giá đậu tương phiên này tăng 7-3/4 cent lên 9,80-3/4 USD/bushel và lúa mì giảm 3 cent xuống 5,25 USD/bushel.
Giá đường thô tăng hơn 3% sau khi một vụ cháy thiêu rụi hàng nghìn cánh đồng mía ở Brazil, quốc gia trồng mía hàng đầu thế giới. Đường thô kỳ hạn tháng 10 trên sàn New York kết thúc phiên tăng 0,65 cent, hay 3,5%, lên 19,04 cent/lb, mức cao nhất trong tháng.
Không có giá cập nhật cho mặt hàng đường trắng do thị trường London đóng cửa nghỉ lễ.
Các vụ cháy trên các cánh đồng mía ở khu vực mía chính của Ribeirao Preto vào cuối tuần trước đã dẫn đến việc đóng cửa một nhà máy lớn thuộc sở hữu của, nhà chế biến mía lớn nhất thế giới.
"Về mặt kỹ thuật, thị trường đã bị bán quá mức và các vụ cháy đã tạo ra sự quan tâm mua từ các quỹ đầu cơ", một nhà môi giới của Mỹ cho biết.
Tập đoàn công nghiệp mía đường UNICA của Brazil dự kiến sẽ công bố dữ liệu sản xuất trong nửa đầu tháng 8 vào tuần này. Một cuộc khảo sát của S&P Global Commodities Insights cho thấy sản lượng đường trong giai đoạn này là 3,28 triệu tấn, giảm 5% so với năm trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 tăng 2,35 cent, hay 1%, lên 2,4965 US/lb.
Thị trường cà phê được hỗ trợ bởi các yếu tố cơ bản, với nguồn cung trên toàn cầu giảm, nhất là loại robusta. Một cuộc thăm dò của Reuters cho thấy giá cà phê có thể tăng thêm vào cuối năm.
Giá cao su kỳ hạn tương lai trên thị trường Nhật Bản tăng lên mức cao nhất hơn hai tháng do lo ngại về nguồn cung trong bối cảnh thời tiết ẩm ướt liên tục ở Thái Lan.
Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) lúc kết thúc phiên giao dịch tăng 4,9 yên, hay 1,37%, lên 353,9 yên (2,46 USD)/kg.
Hợp đồng cao su tháng 1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 130 nhân dân tệ, hay 0,8%, lên 16.440 nhân dân tệ (2.308,83 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên Sở giao dịch chứng khoán Singapore tăng 1,4% lên 179,7 cent Mỹ/kg.
Giá cao su được hỗ trợ một phần do các yếu tố liên quan đến thời tiết tác động đến dòng chảy thương mại trong tháng này, với các báo cáo về thời tiết ẩm ướt, đặc biệt là ở miền Bắc Thái Lan, tác động đến giá cao su nguyên liệu.
Cơ quan khí tượng Thái Lan cảnh báo về những trận mưa lớn có thể gây ra lũ quét từ ngày 27 đến 30 tháng 8.
Với nhu cầu từ châu Âu và Mỹ đã bắt đầu phục hồi, và nhu cầu của Trung Quốc đang tăng tốc, các yếu tố cơ bản mạnh mẽ dự kiến sẽ bù đắp cho ảnh hưởng tiêu cực của đồng yên Nhật mạnh lên, Jom Jacob, nhà phân tích trưởng tại công ty phân tích What Next Rubber của Ấn Độ cho biết.
Đồng USD đã giảm xuống mức thấp nhất trong ba tuần so với đồng yên, khi sự thay đổi quan điểm ôn hòa rõ rệt của Chủ tịch Fed trái ngược hẳn với quan điểm cứng rắn của giám đốc Ngân hàng Nhật Bản Kazuo Ueda.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,79
|
-0,14
|
-0,19%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
75,99
|
-0,06
|
-0,08%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
219,85
|
-0,65
|
-0,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,19
|
+0,01
|
+0,60%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
224,16
|
-0,81
|
-0,36%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.537,10
|
-10,40
|
-0,41%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.501,27
|
-11,29
|
-0,45%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
29,85
|
-0,12
|
-0,40%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
964,66
|
-4,49
|
-0,46%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
422,70
|
+0,05
|
+0,01%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.260,00
|
+56,00
|
+0,61%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.487,00
|
-15,00
|
-0,60%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.850,50
|
+45,50
|
+1,62%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
32.695,00
|
+419,00
|
+1,30%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
398,50
|
+0,25
|
+0,06%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
544,75
|
+0,75
|
+0,14%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
320,25
|
-0,75
|
-0,23%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
14,77
|
-0,02
|
-0,14%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
977,25
|
-4,25
|
-0,43%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
308,20
|
-0,50
|
-0,16%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
39,23
|
-0,35
|
-0,88%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
573,10
|
-4,50
|
-0,78%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.697,00
|
+57,00
|
+0,75%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
249,25
|
+0,75
|
+0,30%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
17,65
|
+0,08
|
+0,46%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
460,95
|
+17,85
|
+4,03%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
70,20
|
-0,15
|
-0,21%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
177,40
|
-1,30
|
-0,73%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|