Trên thị trường năng lượng, giá dầu gần như không thay đổi, kết thúc phiên ở mức trên 90 USD/thùng - lần đầu tiên trong 10 tháng - đạt được vào tuần trước, sau khi Saudi Arabia và Nga cắt giảm sản lượng một lần nữa.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô Brent giảm 1 US cent xuống 90,64 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 22 US cent xuống 87,29 USD/thùng.
Saudi Arabia và Nga tuần trước tuyên bố sẽ gia hạn việc cắt giảm nguồn cung tự nguyện tổng cộng 1,3 triệu thùng/ngày (bpd) đến cuối năm nay. Việc cắt giảm nguồn cung làm át đi mối lo ngại về hoạt động kinh tế của Trung Quốc. Thứ trưởng Tài chính Mỹ, Wally Adeyemo cho biết, các vấn đề kinh tế của Trung Quốc có nhiều khả năng gây tác động cục bộ hơn là ảnh hưởng đến Mỹ.
Một cuộc thăm dò sơ bộ của Reuters cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ dự kiến sẽ giảm tuần thứ 5 liên tiếp, giảm thêm khoảng 2 triệu thùng.
Nguồn cung dầu thô cũng có thể chứng kiến sự gián đoạn mới do các cơn bão và lũ lụt mạnh ở miền đông Libya, khiến hơn 2.000 người thiệt mạng và buộc bốn cảng xuất khẩu dầu lớn - Ras Lanuf, Zueitina, Brega và Es Sidra - phải đóng cửa kể từ thứ Bảy.
Trong khi đó, mùa bảo trì nhà máy lọc dầu ở châu Âu (mùa thu này) dự kiến sẽ không kéo dài lâu do các nhà máy lọc dầu mong muốn thu được lợi nhuận từ tỷ suất lợi nhuận cao, điều này có thể hỗ trợ nhu cầu dầu thô. Theo công ty tư vấn Wood Mackenzie, công suất nhà máy lọc dầu ngoại tuyến ở châu Âu ở mức khoảng 800.000 thùng/ngày, giảm 40% so với cùng kỳ năm ngoái.
Một loạt dữ liệu kinh tế vĩ mô dự kiến trong tuần này sẽ cho biết liệu các ngân hàng trung ương ở Châu Âu và Mỹ có tiếp tục chiến dịch tăng lãi suất hay không.
Dữ liệu chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 của Mỹ sẽ được công bố vào thứ Tư và có thể đưa ra chỉ dẫn về việc liệu Fed có tăng lãi suất nữa hay không.
Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng dự kiến sẽ công bố quyết định lãi suất trong tuần này. Hôm thứ Hai, Ủy ban Châu Âu dự báo khu vực đồng euro sẽ tăng trưởng chậm hơn dự kiến trước đó vào năm 2023 và 2024.
Trong tuần này, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) và Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) sẽ công bố báo cáo dự báo triển vọng thị trường cập nhật. IEA tháng trước đã hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu năm 2024 xuống 1 triệu thùng/ngày, với lý do điều kiện kinh tế vĩ mô mờ nhạt. Trong khi đó, báo cáo tháng 8 của OPEC giữ nguyên dự báo tăng trưởng nhu cầu 2,25 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do đồng USD giảm và các nhà đầu tư tập trung vào chỉ số lạm phát của Mỹ và khả năng ảnh hưởng đến quỹ đạo lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,2% lên 1.921,1 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 0,2% lên 1.947,2 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD giảm 0,5% khiến vàng trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác. Tuy nhiên, đà tăng giá vàng bị hạn chế bởi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng cao.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao tại OANDA, cho biết: “Vàng đã bắt đầu tuần mới với tín hiệu tích cực do đồng đô la suy yếu, nhưng giá có thể sẽ phải đối mặt với một số áp lực trong ngắn hạn với việc thị trường kỳ vọng sẽ có thêm một đợt tăng lãi suất nữa trong năm nay”.
“Tôi không nghĩ chúng ta sẽ bật đèn xanh cho các nhà đầu tư trở nên quyết liệt và sớm quay trở lại với kim loại quý.”
Theo công cụ CME FedWatch, các nhà giao dịch dự đoán 93% khả năng Fed giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp chính sách ngày 19 đến 20 tháng 9. Nhưng tỷ lệ cược cũng cho thấy khả năng tăng lãi suất là 41% vào tháng 11.
Trước cuộc họp tiếp theo, các nhà hoạch định chính sách của Fed đã nói rõ rằng họ không muốn tăng lãi suất, nhưng rất ít trong số họ sẵn sàng tuyên bố đã chiến thắng lạm phát.
Phillip Streible, chiến lược gia trưởng thị trường của Blue Line Futures ở Chicago, cho biết để giá vàng kỳ hạn tăng lên trên 2.000 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,7% lên 23,07 USD/ounce; bạch kim tăng 0,6% lên 897,79 USD/ounce, trong khi palladium tăng 1,3% lên 1.213,95 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do đồng nhân dân tệ tăng mạnh, đồng USD suy yếu và số liệu cho vay lạc quan từ Trung Quốc thúc đẩy hoạt động mua vào.
Giá đồng trên sàn London tăng 2% lên 8.410,5 USD/tấn. Đồng đã chạm mức thấp nhất 3 tuần (8.213 USD/tấn) trong phiên trước đó.
Đồng USD suy yếu, khiến hàng hóa mua bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác, điều này có thể thúc đẩy nhu cầu và giá.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã giúp củng cố đồng nhân dân tệ so với đồng đô la bằng cách nâng biên độ tham chiếu tỷ giá lên mức chênh lệch lớn nhất trong lịch sử, báo hiệu việc họ ngày càng khó chịu ngày trước sự yếu kém gần đây của đồng tiền này.
Các khoản cho vay mới của ngân hàng ở Trung Quốc trong tháng 8 tăng gần gấp bốn lần so với tháng 7, trong khi mức tăng trưởng hàng năm của tổng dư nợ tài chính xã hội (TSF) - thước đo rộng rãi về tín dụng và thanh khoản trong nền kinh tế - nhanh chóng lên 9,0%. Vào tháng 8, TSF đã tăng lên 3,12 nghìn tỷ nhân dân tệ (428 tỷ USD) từ mức 528,2 tỷ nhân dân tệ trong tháng 7.
Thị trường kim loại công nghiệp cũng sẽ theo dõi dữ liệu giá nhà của Trung Quốc cùng với sản lượng công nghiệp và số lượng đầu tư đô thị trong tuần này.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này tăng 1,1% lên 2.208,5 USD/tấn, kẽm tăng 2,8% lên 2.512,5 USD, chì tăng 0,8% lên 2.245,5 USD, thiếc tăng 0,8% lên 25.785 USD và niken tăng 2,2% lên 20.485 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng do số liệu kinh tế của Trung Quốc được cải thiện đã nâng đỡ thị trường bị suy giảm, bởi tuần trước Bắc Kinh cam kết tăng cường giám sát thị trường này sau đợt tăng giá.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Đại Liên tăng 2,41% lên 851,5 CNY (116,8 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn Singapore tăng 3,19% lên 116,95 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây thay đổi nhẹ, thép cuộn cán nóng tăng 0,21% và thép không gỉ tăng 0,13%, song thép cuộn giảm 3,31%.
Dữ liệu chính thức hôm thứ Bảy cho thấy cho thấy giá tiêu dùng của Trung Quốc đã quay trở lại vùng tích cực trong tháng 8 trong khi mức giảm giá tại nhà máy chậm lại, do áp lực giảm phát giảm bớt trong bối cảnh nền kinh tế có dấu hiệu ổn định.
Các nhà phân tích tại Huatai Futures cho biết: “Tỷ lệ vận hành lò cao giữa các nhà máy tiếp tục tăng lên, trong khi vẫn chưa thấy sự thay đổi (giảm) sản lượng kim loại nóng hàng ngày”.
Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy sản lượng kim loại nóng hàng ngày giữa các nhà máy được khảo sát đã tăng 0,53% trong tuần lên 2,48 triệu tấn trong tuần tính đến ngày 8 tháng 9, cao nhất kể từ tháng 10 năm 2020.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ biến động trong khi giá lúa mì giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2023, do các thương nhân điều chỉnh danh mục đầu tư trước báo cáo vụ mùa quan trọng của chính phủ.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì giảm 11-1/4 US cent xuống 5,84-1/4 USD/bushel, sau khi chạm 5,8-1/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 31/5/2023; giá đậu tương tăng 6 US cent lên 13,69 USD/bushel; giá ngô tăng 2 US cent lên 4,85-3/4 USD/bushel.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn London tăng 6,4 USD tương đương 0,9% lên 733,2 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 12 năm (753,1 USD/tấn) trong tuần trước đó; đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE tăng 0,09 US cent tương 0,3% lên 26,4 US cent/lb.
Cổ phiếu của các nhà sản xuất đường Ấn Độ tăng chỉ sau một đêm sau khi nước này gia hạn thêm 5 năm thời hạn tăng gấp đôi tỷ lệ pha trộn ethanol làm từ mía và xăng trên toàn quốc lên 20%. Sản lượng ethanol cao hơn trong nước sẽ đồng nghĩa với sản lượng đường nhỏ hơn.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn London tăng 32 USD tương đương 1,3% lên 2.439 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn ICE tăng 4,2 US cent tương đương 2,8% lên 1,5285 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tuần (1,476 USD/lb) trong đầu phiên giao dịch.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm đạt 1,2 triệu tấn, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 2 liên tiếp, song thị trường năng lượng suy yếu đã hạn chế đà tăng.
Cụ thể, cao su kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Osaka tăng 1 JPY tương đương 0,4% lên 234,9 JPY (1,6 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 0,3% xuống 14.355 CNY (1.968,62 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn Singapore tăng 0,7% lên 144,3 US cent/kg.
Cao su tự nhiên thường đi theo giá dầu khi cạnh tranh với cao su tổng hợp, làm từ dầu thô, để giành thị phần.
Đồng yên tăng vọt khi những bình luận từ Thống đốc Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) Kazuo Ueda làm dấy lên hy vọng rằng Nhật Bản có thể sớm báo trước một kỷ nguyên mới thoát khỏi lãi suất âm, trong khi đồng đô la trượt giá trước số liệu lạm phát quan trọng của Mỹ trong tuần này.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
87,63
|
+0,34
|
+0,39%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
90,89
|
+0,25
|
+0,28%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
84.400,00
|
+300,00
|
+0,36%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,61
|
+0,01
|
+0,23%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
273,50
|
+1,63
|
+0,60%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
337,35
|
+1,13
|
+0,34%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.006,25
|
-5,50
|
-0,54%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
90.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.945,20
|
-2,00
|
-0,10%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
9.054,00
|
+14,00
|
+0,15%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,45
|
+0,07
|
+0,29%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
108,40
|
-1,50
|
-1,36%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
905,66
|
+1,72
|
+0,19%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.221,87
|
+0,04
|
+0,00%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
380,80
|
+0,10
|
+0,03%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.402,00
|
+159,50
|
+1,94%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.205,50
|
+22,00
|
+1,01%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.509,50
|
+66,00
|
+2,70%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.803,00
|
+230,00
|
+0,90%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
486,25
|
+0,50
|
+0,10%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
586,25
|
+1,75
|
+0,30%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
497,75
|
+4,50
|
+0,91%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,80
|
+0,01
|
+0,03%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.369,00
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
405,30
|
+0,40
|
+0,10%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
60,46
|
-0,04
|
-0,07%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
769,00
|
+1,40
|
+0,18%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.656,00
|
+2,00
|
+0,05%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
152,85
|
+4,20
|
+2,83%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
26,40
|
+0,09
|
+0,34%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
328,45
|
-1,15
|
-0,35%
|
Bông
|
US cent/lb
|
88,20
|
+0,42
|
+0,48%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
144,00
|
+0,30
|
+0,21%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|