Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 1,5% sau khi dữ liệu cho thấy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc thấp hơn so với dự kiến làm dấy lên nghi ngờ về nhu cầu tại nước tiêu thụ dầu lớn thứ 2 thế giới, và việc Libya khởi động một phần sản lượng bị đình trệ cũng gây áp lực giá.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 1,37 USD tương đương 1,7% xuống 78,5 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,27 USD tương đương 1,7% xuống 74,15 USD/thùng. Đây là phiên giảm thứ 2 liên tiếp đối với cả hai loại dầu.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc trong quý 2/2023 tăng 6,3%, so với dự báo tăng 7,3% của các nhà phân tích, do sự hồi phục chậm sau đại dịch.
Warren Patterson, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu hàng hóa của ING cho biết: “GDP đạt được dưới mức mong đợi, do đó sẽ không làm giảm bớt những lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc”.
Giá dầu cũng chịu áp lực giảm do việc Lybia nối lại sản lượng tại 2 trong số 3 mỏ dầu bị đóng cửa vào tuần trước.
Trong khi đó, xuất khẩu dầu của Nga từ các cảng phía tây sẽ giảm 100.000-200.000 thùng mỗi ngày vào tháng tới, một dấu hiệu cho thấy Moscow đang thực hiện tốt cam kết cắt giảm nguồn cung song song với Saudi Arabia, hai nguồn tin cho biết hôm thứ Sáu.
Sản lượng dầu đá phiến của Mỹ cũng có thể giảm xuống gần 9,40 triệu thùng/ngày trong tháng 8, đây sẽ là mức giảm hàng tháng đầu tiên kể từ tháng 12 năm 2022, dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng cho thấy hôm thứ Hai.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng biến động nhẹ khi các thương nhân hoài nghi về việc liệu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể sớm đưa ra tín hiệu kết thúc lộ trình thắt chặt tiền tệ hay không?
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay vững ở mức 1.953,91 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 8/2023 giảm 0,4% xuống 1.956,4 USD/ounce.
Đồng USD chạm gần mức thấp nhất hơn 1 năm, khiến vàng trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Bart Melek, người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa của TD Securities, cho biết: “Các nhà đầu tư (vàng) tại thời điểm này khá miễn cưỡng trong việc trả giá cao hơn bất chấp dữ liệu lạm phát tuần trước”.
Giá vàng thỏi tuần trước đã ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 4 khi đặt cược rằng Fed có thể tạm dừng tăng lãi suất sau tháng 7 sau khi dữ liệu của Mỹ gợi ý về xu hướng giảm lạm phát khi giá tiêu dùng tăng với tốc độ chậm nhất trong hơn hai năm.
Giá bạc phiên này giảm 0,5% xuống 24,82 USD/ounce.
"Có thể cần phải cải thiện hoạt động ở Trung Quốc và châu Âu để thấy giá (bạc) tăng hơn nữa trong nửa cuối năm 2023”, các nhà phân tích của Heraeus cho biết.
Giá bạch kim phiên này tăng 0,6% lên 977,42 USD, trong khi palladium tăng 1,2% lên 1.286,13 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản giảm bất chấp đồng USD chạm mức thấp nhất 15 tháng, sau tuần giảm mạnh nhất trong năm.
Giá đồng giảm sau số liệu kinh tế yếu kém từ nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới – Trung Quốc – làm giảm kỳ vọng nhu cầu.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2,2% xuống 8.486,5 USD/tấn, sau khi tăng 3,6% trong tuần trước đó.
Amelia Xiao Fu, trưởng bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa tại Ngân hàng Trung Quốc Quốc tế ở London, cho biết: “Chắc chắn chúng ta có số liệu GDP thấp hơn dự kiến và cho đến nay vẫn chưa có một lượng lớn kích thích nào được công bố”. "Chúng tôi không thay đổi quan điểm về việc mong đợi các biện pháp kích thích phù hợp và có mục tiêu hơn mặc dù mức độ yếu hơn. Nhìn chung, mục đích chính là duy trì sự ổn định thay vì có một cú hích lớn hoặc tăng trưởng hai con số như những năm trước."
Cũng gây áp lực cho các kim loại cơ bản là dữ liệu cho thấy sản lượng kim loại màu của Trung Quốc vào tháng trước tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm ngoái, bao gồm cả nhôm. Nguồn cung ngày càng tăng và nhu cầu yếu làm tăng kỳ vọng hàng tồn kho ngày càng tăng.
Giá nhôm phiên này giảm 0,9% xuống 2.255 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất trong ngày là 2.235 USD, giá kẽm giảm 1,4% xuống còn 2.405,50 USD, chì giảm 1,3% xuống còn 2.096 USD trong khi niken giảm 2,8% xuống còn 21.035 USD và thiếc giảm 0,7% xuống còn 28.345 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á giảm khỏi mốc cao nhất nhiều tháng đạt được trong phiên trước đó do các thương nhân cân nhắc gói dữ liệu kinh tế hỗn hợp từ Trung Quốc với kỳ vọng có thêm các biện pháp kích thích.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên giảm 0,9% xuống 832,5 CNY (116,05 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 4 tháng trong phiên trước đó; quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Singapore giảm 1,7% xuống 112,3 USD/tấn, sau khi tăng 4 phiên liên tiếp lên mức cao nhất 3 tháng trong phiên trước đó.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,6%, thép cuộn cán nóng giảm 1,5%, thép cuộn giảm 2,1% và thép không gỉ giảm 1,5%.
Trong tháng 6/2023, sản lượng công nghiệp Trung Quốc đứng đầu dự báo với mức tăng 4,4% so với cùng tháng năm ngoái. Sản lượng thép thô tăng 1,1% so với tháng trước đó và tăng 0,4% so với cùng tháng năm ngoái. Tuy nhiên, doanh số bán bất động sản giảm mạnh so với tháng trước đó và giảm mạnh nhất trong năm nay, trong khi đầu tư giảm mạnh với 2 con số.
Đồng thời, xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 6/2023 giảm mạnh nhất trong 3 năm.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì và ngô giảm sau khi tăng lên mức cao nhất 2 tuần trong đầu phiên giao dịch, khi Nga tuyên bố rời bỏ thỏa thuận cho phép Ukraine xuất khẩu ngũ cốc qua Biển Đen.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì giảm 7-3/4 US cent xuống 6,53-3/4 USD/bushel và giá ngô giảm 7-3/4 US cent xuống 5,06 USD/bushel. Trong khi đó, giá đậu tương tăng 7-1/4 US cent lên 13,78 USD/bushel.
Giá đường thô trên sàn giao dịch ICE giảm khi thị trường củng cố mức tăng gần đây liên quan đến nguồn cung hạn chế và lo ngại về thời tiết.
Đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE giảm 0,52 US cent tương đương 2,1% xuống 23,8 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần trong phiên trước đó; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 16,3 USD tương đương 2,4% xuống 669,4 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường gần đây tăng giá bởi những lo ngại rằng hiện tượng thời tiết El Nino đang bắt đầu ảnh hưởng đến các nhà sản xuất chính là Ấn Độ và Thái Lan, nhưng nói thêm rằng điều này ở một mức độ nào đó đã được xác định.
Các nhà máy Brazil đã chuẩn bị khoảng 4,5 triệu tấn đường xuất khẩu cho mùa tới (2024/25) trên ICE trước ngày 30 tháng 6, Archer Consulting cho biết.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE giảm 5 US cent tương đương 3,1% xuống 1,558 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London tăng 12 USD tương đương 0,5% lên 2.552 USD/tấn.
Các nhà đầu cơ cà phê arabica đã tăng vị thế bán ròng của họ thêm 2.819 hợp đồng lên 13.342 trong tuần tính đến ngày 11 tháng 7, trong khi đó các nhà đầu cơ cà phê Robusta đã cắt giảm vị thế mua ròng của họ 1.816 lô xuống còn 38.810 lô tính đến ngày 11/7.
Sàn giao dịch Osaka đóng cửa trong phiên thứ Hai nên không có giá cao su cập nhật.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

74,32

+0,17

+0,23%

Dầu Brent

USD/thùng

78,67

+0,17

+0,22%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

69.380,00

-1.000,00

-1,42%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,54

+0,03

+1,11%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

264,27

+1,10

+0,42%

Dầu đốt

US cent/gallon

256,78

+0,36

+0,14%

Dầu khí

USD/tấn

746,00

-2,25

-0,30%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.960,60

+4,20

+0,21%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.722,00

+40,00

+0,46%

Bạc New York

USD/ounce

25,11

+0,09

+0,37%

Bạc TOCOM

JPY/g

110,70

+1,30

+1,19%

Bạch kim

USD/ounce

984,91

+4,98

+0,51%

Palađi

USD/ounce

1.295,93

+4,13

+0,32%

Đồng New York

US cent/lb

384,20

-0,20

-0,05%

Đồng LME

USD/tấn

8.491,00

-182,50

-2,10%

Nhôm LME

USD/tấn

2.255,00

-21,50

-0,94%

Kẽm LME

USD/tấn

2.410,00

-29,00

-1,19%

Thiếc LME

USD/tấn

28.363,00

-180,00

-0,63%

Ngô

US cent/bushel

508,00

+2,00

+0,40%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

652,50

-1,25

-0,19%

Lúa mạch

US cent/bushel

425,25

+4,00

+0,95%

Gạo thô

USD/cwt

15,36

0,00

-0,03%

Đậu tương

US cent/bushel

1.381,50

+3,50

+0,25%

Khô đậu tương

USD/tấn

410,70

+1,30

+0,32%

Dầu đậu tương

US cent/lb

60,43

+0,09

+0,15%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

829,10

-0,70

-0,08%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.359,00

+7,00

+0,21%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

155,80

-5,00

-3,11%

Đường thô

US cent/lb

23,80

-0,52

-2,14%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

273,90

+1,40

+0,51%

Bông

US cent/lb

82,66

+0,53

+0,65%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

127,70

-0,10

-0,08%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)