Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng vào lúc kết thúc phiên thứ Hai sau khi chạm mốc 95 USD/thùng lúc đầu phiên do dự đoán nguồn cung thiếu hụt bởi Nga và Saudi Arabia cắt giảm sản lượng kéo dài cũng như sản lượng dầu đá phiến của Mỹ thấp, mặc dù triển vọng nhu cầu không khả quan.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 50 US cent lên 94,43 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 0,71 USD lên 91,48 USD/thùng.
Trong tháng này, Saudi Arabia và Nga đã gia hạn mức cắt giảm nguồn cung tổng cộng 1,3 triệu thùng/ngày (bpd) cho đến cuối năm nay.
Trong khi đó, sản lượng dầu của Mỹ từ các khu vực sản xuất đá phiến chủ chốt tháng 10 dự kiến cũng giảm tháng thứ ba liên tiếp uống mức thấp nhất kể từ tháng 5 năm 2023, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết trong một báo cáo hàng tháng.
Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, hoàng tử Abdulaziz bin Salman đã cảnh báo tình trạng không chắc chắn về nhu cầu của Trung Quốc, tăng trưởng của Châu Âu và hành động của ngân hàng trung ương để giải quyết lạm phát, đồng thời bảo vệ việc cắt giảm sản lượng của OPEC+.
Giá cả dầu Brent và WTI đã tăng ba tuần liên tiếp để chạm mức cao nhất kể từ tháng 11 và đang trên đà có mức tăng hàng quý lớn nhất kể từ quý 1 năm 2022.
Dennis Kissler, phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch tại BOK Financial, cho biết thị trường cũng đang chứng kiến một số hoạt động chốt lời.
Citi hôm thứ Hai đã trở thành ngân hàng mới nhất dự đoán rằng giá Brent có thể vượt quá 100 USD/thùng trong năm nay. Giám đốc điều hành Chevron Mike Wirth trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg News cũng cho biết rằng ông nghĩ giá dầu sẽ vượt ngưỡng 100 USD/thùng.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết, việc cắt giảm sản lượng của Saudi Arabia và Nga có thể dẫn đến thâm hụt 2 triệu thùng/ngày trong quý 4 và việc giảm tồn kho sau đó có thể khiến thị trường đối mặt với nguy cơ tăng giá thêm vào năm 2024.
Trung Quốc là yếu tố rủi ro chính vì tốc độ phục hồi kinh tế chậm chạp sau đại dịch, mặc dù lượng dầu nhập khẩu của nước này vẫn ở mức cao.
Một loạt biện pháp kích thích và sự bùng nổ du lịch trong mùa hè đã giúp sản lượng công nghiệp và chi tiêu tiêu dùng phục hồi trong tháng 8 và các nhà máy lọc dầu của Trung Quốc đã tăng sản lượng, nhờ biên lợi nhuận xuất khẩu mạnh.
Mọi sự chú ý cũng sẽ đổ dồn vào các ngân hàng trung ương trong tuần này, bao gồm cả quyết định lãi suất từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Ngân hàng Anh có thể sẽ tăng lãi suất một lần nữa trong tuần này, có thể là bước đột phá cuối cùng cho một trong những chu kỳ thắt chặt mạnh mẽ nhất trong 100 năm qua khi nền kinh tế hạ nhiệt bắt đầu khiến các nhà hoạch định chính sách lo lắng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng sau khi USD giảm nhẹ trong bối cảnh các nhà đầu tư đợi một loạt cuộc họp chính sách của các ngân hàng trung ương quan trọng trong tuần này, với việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ được dự kiến sẽ tạm dừng tăng lãi suất.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.932,49 USD/ounce; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 tăng 0,4% lên 1.953,4 USD/ounce.
USD giảm 0,3% so với các đồng tiền chủ chốt, khiến vàng trở nên rẻ hơn đối với những người mua bằng các ngoại tệ khác.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao của OANDA, cho biết: “Thị trường đang rất tập trung vào ngân hàng trung ương… kỳ vọng rằng họ (Fed) sẽ đẩy lãi suất lên cao hơn trong thời gian dài hơn và điều đó sẽ khiến các nhà đầu tư lo ngại”.
Theo FedWatch Tool của CME, quyết định chính sách của Fed, sẽ công bố vào ngày 20/9, các nhà đầu tư dự định 99% khả năng ngân hàng này giữ lãi suất ổn định trong phạm vi 5,25% tới 5,5%.
Ngân hàng Anh được cho là sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản lên 5,5% vào thứ Năm. Cuộc họp của Ngân hàng Nhật Bản diễn ra vào thứ Sáu, trong đó các nhà đầu tư đang tìm kiếm thêm tín hiệu về triển vọng từ Thống đốc Kazuo Ueda sau những bình luận gần đây về việc chấm dứt lãi suất âm.
Vàng không sinh lãi có xu hướng không được các nhà đầu tư ưa chuộng khi lãi suất tăng.
Giá vàng tại Trung Quốc đạt kỷ lục trong tuần trước, kéo dài đợt tăng trong nhiều tháng do người tiêu dùng tăng cường mua tài sản trú ẩn an toàn này để bù đắp cho sự mất giá của đồng nhân dân tệ.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết: “Mặc dù những diễn biến ở Trung Quốc rất đáng theo dõi nhưng hiện tại chúng tôi không tin rằng điều này sẽ thay đổi triển vọng của thị trường vàng”.
Giá bạc giao ngay phiên vừa qua tăng 0,9% lên 23,21 USD/ounce, bạch kim tăng 0,9% lên 932,89 USD, trong khi palladium giảm 0,4% xuống 1.243,83 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do thị trường lo ngại về nhu cầu tại Trung Quốc, nước tiêu thụ hàng đầu thế giới, và dự trữ tại các sàn giao dịch tăng. Tuy nhiên, dự kiến chu kỳ tăng lãi suất trên toàn cầu sắp kết thúc đã hạn chế đà giảm.
Thị trường kim loại công nghiệp đang theo dõi tỷ giá hối đoái của đồng đô la so với đồng nhân dân tệ, điều này ảnh hưởng đến nhu cầu kim loại công nghiệp của Trung Quốc. Đồng tiền Mỹ yếu hơn có thể thúc đẩy nhu cầu đối với kim loại định giá bằng đồng đô la.
Kết thúc phiên, đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch London LME giảm 0,5% xuống 8.362 USD/tấn. Mặt hàng này gần như giao dịch trong một phạm vi hẹp trong tháng qua.
Giá chì kỳ hạn 3 tháng giảm 0,7% xuống 2.245,5 USD; nhôm tăng 1,3% lên 2.218 USD, kẽm tăng 0,8% lên 2.542 USD, thiếc tăng 1,9% lên 26.185 USD và niken giảm 0,2% xuống 19.890 USD.
Năm ngân hàng trung ương gồm Cục Dự trữ Liên bang Mỹ được dự kiến giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày kết thúc vào ngày 20/9.
Lo sợ rằng nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa chạm đáy bởi số liệu cho thấy lĩnh vực bất động sản của nước này tồi tệ hơn trong tháng 8, với sự sụt giảm mạnh trong giá nhà mới, đầu tư bất động sản và doanh số bán trong lĩnh vực này.
Dự trữ đồng của sàn LME ở mức 147.575 tấn, tăng hơn 170% kể từ giữa tháng 7.
Giá quặng sắt đảo chiều giảm sau khi tăng mạnh trong tuần trước do các tin tức tiêu cực liên quan tới lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 10 trên sàn giao dịch Singapore giảm 0,9% xuống 121,9 USD/tấn. Trước đó đã giảm xuống 119,6 USD/tấn, giảm mạnh từ mức cao nhất 6 tháng tại 123,75 USD đã chạm tới trong ngày 15/9. Quặng sắt giao tháng 1/2024 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 0,2% xuống 871,5 CNY (119,53 USD)/tấn.
Tuy nhiên, giá thép trên sàn Thượng Hải trái chiều, thép cây tăng 0,7%, thép cuộn cán nóng tăng 0,3% trong khi dây thép cuộn giảm 0,5%; thép không gỉ tăng 0,4%.
Nhà phát triển bất động sản Country Garden của Trung Quốc phải đối mặt với một thử thách thanh khoản khác với thời hạn vào ngày 18/9 phải trả 15 triệu USD tiền lãi liên quan tới trái phiếu nước ngoài sau khi hai lần tránh được vỡ nợ vào phút cuối trong đầu tháng này.
Nhà phát triển bất động sản Evergrande, cũng đang gặp khó khăn, chứng kiến giá cổ phiếu của họ giảm 25% sau khi cảnh sát bắt giữ một số nhân viên tại đơn vị quản lý tài sản của tập đoàn, cho thấy một cuộc điều tra mới có thể làm tăng thêm khó khăn.
Khi cuộc khủng hoảng nợ bao vây các công ty bất động sản của Trung Quốc ngày càng sâu sắc, số liệu ngày 15/9 cho biết đầu tư vào lĩnh vực bất động sản đang sụt giảm.
Không quan tâm tới sự sụt giảm giá quặng sắt, các thành phần sản xuất thép khác tăng bởi dấu hiệu nhu cầu mạnh. Than luyện cốc và than cốc trên sàn giao dịch Đại Liên tăng lần lượt 4,3% và 2,3%.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ giảm xuống mức thấp nhất gần 3 tháng bởi nhu cầu xuất khẩu tiếp tục yếu và dự đoán vụ thu hoạch của Mỹ sẽ sớm mở rộng tới khu vực trung tâm nước Mỹ. Giá ngô và đậu tương cũng giảm.
Kết thúc phiên này, giá ngô trên sàn Chicago kỳ hạn tháng 12 giảm 4-3/4 cent, tương đương khoảng 1%, xuống 4,71-1/2 USD/bushel, sau khi chạm 4,69 USD, mức giá thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2020. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 giảm 23-1/2 cent ở mức 13,16-3/4 USD/bushel, sau khi có lúc giảm xuống 13,15-1/2 USD, mức thấp nhất trong hợp đồng kể từ ngày 16 tháng 8. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 12 giảm 13 US cent xuống 5,91-1/4 USD/bushel do nguồn cung lớn từ Nga tiếp tục chảy vào thị trường toàn cầu.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa tăng 0,2 US cent hay 0,7% lên 27,11 US cent/lb, gần sát mức cao nhất 12 năm, là 27,59 US cent chạm tới vào ngày 15/9. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 5,6 USD hay 0,8% lên 735,9 USD/tấn.
Thị trường vẫn củng cố bởi lo ngại rằng thời tiết khô hạn hơn thường lệ bởi hiện tượng El Nino dường như làm giảm sản lượng tại Ấn Độ và Thái Lan.
Cơ quan giám sát cây trồng của Liên minh Châu Âu (MARS) đã nâng triển vọng năng suất củ cải đường của EU năm nay lên 74,5 tấn/ha từ mức 73,7 tấn/ha dự kiến vào tháng trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 kết thúc phiên tăng 0,45 US cent hay 0,3% lên 1,596 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 10 USD hay 0,4% lên 2.566 USD/tấn.
Các đại lý lưu ý dự báo thời tiết khô và ấm hơn trung bình tại các khu vực trồng cà phê của Brazil trong tuần này. Các vùng trồng cà phê của nước này đang bước vào gia đoạn nở hoa khi mưa và nhiệt độ ôn hòa là điều kiện mong muốn để cải thiện vụ mùa năm nay.

 

Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

92,40

+0,92

+1,01%

Dầu Brent

USD/thùng

94,71

+0,28

+0,30%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

86.850,00

+1.240,00

+1,45%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,73

+0,00

+0,07%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

270,28

+0,49

+0,18%

Dầu đốt

US cent/gallon

330,76

+1,93

+0,59%

Dầu khí

USD/tấn

963,25

-4,75

-0,49%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

90.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.953,80

+0,40

+0,02%

Vàng TOCOM

JPY/g

9.167,00

+82,00

+0,90%

Bạc New York

USD/ounce

23,51

+0,01

+0,03%

Bạc TOCOM

JPY/g

112,20

+2,50

+2,28%

Bạch kim

USD/ounce

377,20

-0,70

-0,19%

Palađi

USD/ounce

8.359,50

-46,00

-0,55%

Đồng New York

US cent/lb

377,20

-0,70

-0,19%

Đồng LME

USD/tấn

8.359,50

-46,00

-0,55%

Nhôm LME

USD/tấn

2.220,00

+30,00

+1,37%

Kẽm LME

USD/tấn

2.542,00

+21,50

+0,85%

Thiếc LME

USD/tấn

26.183,00

+480,00

+1,87%

Ngô

US cent/bushel

470,25

-1,25

-0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

585,25

-6,00

-1,01%

Lúa mạch

US cent/bushel

446,00

-8,00

-1,76%

Gạo thô

USD/cwt

15,95

-0,07

-0,44%

Đậu tương

US cent/bushel

1.312,75

-4,00

-0,30%

Khô đậu tương

USD/tấn

387,70

-0,20

-0,05%

Dầu đậu tương

US cent/lb

60,66

-0,28

-0,46%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

738,60

-3,40

-0,46%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.621,00

-136,00

-3,62%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

159,60

+0,45

+0,28%

Đường thô

US cent/lb

27,36

+0,20

+0,74%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

339,05

+7,80

+2,35%

Bông

US cent/lb

86,79

-0,21

-0,24%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

144,10

+0,90

+0,63%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)