Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm và nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc tăng mạnh, song triển vọng nhu cầu yếu đã hạn chế mức tăng.
Kết thúc phiên, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 9/2023 tăng 18 US cent, tương đương 0,2%, lên 79,64 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 28 US cent, tương đương 0,4%, lên 75,63 USD/thùng. Giá dầu WTI kỳ hạn tháng 9/2023 tăng 36 US cent lên 75,65 USD/thùng.
Số liệu kinh tế mạnh mẽ, tỉ lệ việc làm thấp và lạm phát giảm hơn 1 năm kể từ khi Fed bắt đầu một trong những chiến dịch tăng lãi suất tích cực nhất trong lịch sử đã hỗ trợ nhu cầu dầu Mỹ trong năm nay.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dự kiến sẽ tăng lãi suất qua đêm thêm 25 điểm cơ bản lên 5,25%-5,5% vào tuần tới. Đây là lần cuối cùng trong chu kỳ thắt chặt lãi suất này.
John Ritterbusch, chủ tịch của Ritterbusch và các cộng sự ở Galena, Illinois, cho biết: “Mặc dù nền kinh tế Mỹ đang chứng tỏ sức mạnh hơn nhiều so với dự kiến trong việc hỗ trợ Chỉ số Trung bình Công nghiệp Dow Jones, nhưng sức mạnh gần đây có vẻ dễ bị tổn thương, đặc biệt nếu Fed tăng lãi suất thêm 25 điểm vào tuần tới”. 
Trong phiên trước đó, giá đã giảm sau khi dữ liệu cho thấy hàng tồn kho của Mỹ giảm ít hơn dự kiến của các nhà phân tích.
Bob Yawger, giám đốc năng lượng tương lai của Mizuho ở New York, cho biết: “Đó không phải là mức giảm lớn mà một số người trên thị trường mong đợi, một phần do nhu cầu xăng thấp hơn mức có thể vào thời điểm này trong năm”.
Sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc sau khi chấm dứt các biện pháp kiềm chế COVID-19 đã không đạt được kỳ vọng. Nhập khẩu dầu của nước này so với cùng kỳ năm ngoái đã tăng trong tháng 6, nhưng đồng thời mức dự trữ cũng tăng lên gần mức cao nhất mọi thời đại.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự báo nhu cầu của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trong nửa cuối năm nay và vẫn là động lực chính của tăng trưởng toàn cầu. Nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc từ Nga trong tháng 6/2023 đạt mức cao kỷ lục, mặc dù mức chiết khấu đã giảm đáng kể, chính phủ Trung Quốc cho biết.
Các nhà phân tích của Citi cho biết giá dầu thô có thể gặp khó khăn trong việc tìm ra hướng đi rõ ràng do triển vọng nhu cầu toàn cầu trái chiều trong vài tuần tới. "Một bức tranh hỗn hợp với nhu cầu xăng và nhiên liệu máy bay mạnh hơn, nhưng dầu mỏ và dầu diesel yếu hơn".
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khỏi mức cao nhất 2 tháng do đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng, song kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tạm dừng tăng lãi suất sau cuộc họp trong tháng 7/2023 đã hạn chế mức giảm.
Giá vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.969,53 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 17/5/2023 lúc đầu phiên giao dịch; vàng kỳ hạn tháng 8/2023 giảm 0,5% xuống 1.970,9 USD/ounce.
David Meger, Giám đốc mảng giao dịch kim loại tại High Ridge Futures cho biết: “Lợi suất trái phiếu Mỹ và đồng USD tăng nhẹ nên đã tác động nhẹ ngược lại đối với vàng, và ngưỡng 2.000 USD/ounce sẽ là một thách thức đối với thị trường vàng trong ngắn hạn”.
Đồng USD tăng 0,6% so với các đồng tiền chủ chốt sau khi Mỹ công bố số liệu đơn xin trợ cấp thất nghiệp. Đồng USD mạnh khiến vàng trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các đồng tiền khác. Lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng.
Dữ liệu cho thấy số người Mỹ nộp đơn yêu cầu trợ cấp thất nghiệp mới bất ngờ giảm vào tuần trước, chạm mức thấp nhất trong hai tháng trong bối cảnh thị trường lao động tiếp tục thắt chặt.
Các nhà đầu tư đang hướng sự chú ý sang cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ diễn ra vào tuần tới, và thị trường nhận định Fed sẽ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản trong cuộc họp này.
Hầu hết các nhà kinh tế được Reuters thăm dò đều kỳ vọng rằng đợt tăng lãi suất tại cuộc họp tháng 7 sẽ là đợt tăng lãi suất cuối cùng trong chu kỳ thắt chặt hiện tại của Fed. Vàng rất nhạy cảm với động thái tăng lãi suất của Mỹ vì lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết: “Sự đảo chiều gần đây của giá vàng phần lớn là do thị trường dự đoán rằng Fed gần như đã hoàn tất chiến dịch tăng lãi suất”
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay phiên này giảm 1,5% xuống còn 24,80 USD, bạch kim giảm 1,8% xuống 955,51 USD, trong khi palladium giảm 2,3% xuống 1.278,02 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng trên sàn London tăng do đồng USD mạnh lên bởi kỳ vọng nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới – Trung Quốc – sẽ đưa ra các biện pháp hỗ trợ bổ sung để thúc đẩy nền kinh tế.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,6% lên 8.480 USD/tấn.
Nitesh Shah, chiến lược gia hàng hóa tại WisdomTree, cho biết: "Mỗi ngày trôi qua dường như có một thông báo vi mô mới từ chính phủ Trung Quốc về một số hình thức hỗ trợ cho nền kinh tế. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có thứ mà nhiều người mong đợi".
Chính phủ Trung Quốc đang cân nhắc nới lỏng quy đinihj thế chấp để thúc đẩy mua nhà tại các thành phố lớn nhất của đất nước, Bloomberg News đưa tin. Động thái này, nếu được xác nhận, có thể thúc đẩy doanh số bán nhà nhiều hơn và giảm bớt áp lực đối với những hàng hóa đang giảm giá do nhu cầu từ lĩnh vực bất động sản giảm.
Về phía cung, kim loại cơ bản đã được hỗ trợ trong tuần này bởi những rủi ro đối với hành lang khai thác của Peru bởi các cuộc biểu tình của cộng đồng và kế hoạch tăng thuế xuất khẩu của Indonesia.
Đối với những kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 0,2% lên 2.195,5 USD/tấn, kẽm tăng 1,1% lên 2.384,5 USD, chì tăng 1,2% lên 2.110 USD, thiếc tăng 2,4% lên 28.785 USD, trong khi niken tăng 1,8% lên 21.280 USD.
Giá quặng sắt hồi phục trong bối cảnh thị trường bàn tán về việc Trung Quốc sẽ hỗ trợ nhiều hơn cho lĩnh vực bất động sản, song lo ngại dư cung và nhu cầu yếu đã hạn chế đà tăng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 1,7% lên 849,5 CNY (118,25 USD)/tấn, kết thúc cuỗi giảm 3 phiên liên tiếp; quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Singapore tăng 2,1% lên 114,7 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,4%, thép cuộn cán nóng tăng 1,4%, thép cuộn tăng 1,1% và thép không gỉ tăng 2,8%.
Về nguồn cung, tồn trữ quặng sắt vận chuyển bằng đường biển tăng 3,4% trong 28 tuần đầu tiên của năm 2023, làm gia tăng lo ngại về tình trạng dư cung ở cả Trung Quốc và toàn cầu, gây áp lực giảm giá, Commonwealth Bank of Australia cho biết.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ giảm, song vẫn gần mức cao kỷ lục gần đây, do lo ngại về sự gián đoạn xuất khẩu cần thiết để đáp ứng nhu cầu thế giới và ngăn chặn giá lương thực tăng cao. Giá ngô và đậu tương cũng giảm do hoạt động bán chốt lời, nhưng mức giảm được hạn chế bởi dự báo thời tiết nóng ở các khu vực trồng trọt chính ở Trung Tây Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 3/4 US cent xuống 7,27 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 4 US cent xuống 14,04-3/4 USD/bushel và giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 6-3/4 US cent xuống 5,46-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE tăng 0,46 US cent tương đương 1,9% lên 24,67 US cent/lb, trong đầu phiên giao dịch đạt mức cao nhất gần 1 tháng (24,7 US cent/lb); đường trắng kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn London tăng 13,1 USD tương đương 1,9% lên 688,9 USD/tấn.
Các đại lý cho biết El Nino cho đến nay đã dẫn đến mưa rải rác ở các nhà sản xuất chính là Ấn Độ và Thái Lan nhưng nhà sản xuất hàng đầu thế giới – Brazil - đã được hưởng thời tiết thuận lợi, dự kiến sẽ dẫn đến sản lượng mạnh, nếu không muốn nói là kỷ lục.
Về mặt tích cực, họ lưu ý rằng nhu cầu có vẻ ổn định vì phần lớn người tiêu dùng trên thế giới hiện đang quan tâm đến các khía cạnh sức khỏe của chất làm ngọt nhân tạo và các nền kinh tế mới nổi đang hoạt động tốt một cách đáng ngạc nhiên.
Giá giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 tăng 2,55 US cent, tương đương 1,6%, lên 1,5805 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 68 USD, tương đương 2,6%, xuống 2.536 USD/tấn, sau khi tăng 2,8% trong phiên trước đó.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm vào đầu phiên nhưng hồi phục về cuối phiên do kỳ vọng các biện pháp kích thích của Trung Quốc, song lo ngại về tác động lâu dài không có sự can thiệp về tài chính đáng kể và triển vọng kinh tế ảm đạm đã hạn chế đà tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Osaka tăng 0,4 JPY tương đương 0,2% lên 203,3 JPY (1,46 USD)/kg, song vẫn dao động xuống mức thấp nhất gần 2 năm đạt được trong phiên ngày 18/7/2023; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 80 CNY lên 12.260 CNY (1.706,55 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Singapore tăng 0,4% lên 129 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

76,00

+0,65

+0,86%

Dầu Brent

USD/thùng

79,67

+0,21

+0,26%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

70.620,00

+30,00

+0,04%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

+0,18

+6,76%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

272,61

+0,56

+0,21%

Dầu đốt

US cent/gallon

265,17

+0,99

+0,37%

Dầu khí

USD/tấn

772,75

-3,50

-0,45%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

2.010,30

-9,30

-0,46%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.876,00

+2,00

+0,02%

Bạc New York

USD/ounce

24,97

-0,42

-1,64%

Bạc TOCOM

JPY/g

111,50

+0,10

+0,09%

Bạch kim

USD/ounce

958,13

-17,86

-1,83%

Palađi

USD/ounce

1.277,13

-31,22

-2,39%

Đồng New York

US cent/lb

383,20

+1,80

+0,47%

Đồng LME

USD/tấn

8.429,00

-44,00

-0,52%

Nhôm LME

USD/tấn

2.190,50

-13,00

-0,59%

Kẽm LME

USD/tấn

2.359,50

-35,50

-1,48%

Thiếc LME

USD/tấn

28.114,00

-426,00

-1,49%

Ngô

US cent/bushel

546,25

-6,75

-1,22%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

730,00

+2,25

+0,31%

Lúa mạch

US cent/bushel

460,50

+6,75

+1,49%

Gạo thô

USD/cwt

15,88

+0,23

+1,47%

Đậu tương

US cent/bushel

1.407,25

-1,50

-0,11%

Khô đậu tương

USD/tấn

412,70

-2,20

-0,53%

Dầu đậu tương

US cent/lb

62,35

+0,91

+1,48%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

843,30

+1,60

+0,19%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.400,00

-33,00

-0,96%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

158,35

+2,85

+1,83%

Đường thô

US cent/lb

24,67

+0,46

+1,90%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

288,70

+1,00

+0,35%

Bông

US cent/lb

84,20

+0,45

+0,54%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

128,10

+0,20

+0,16%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)