Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm 2% xuống mức thấp nhất 3 tuần do đồng USD tăng mạnh và các thương nhân bán chốt lời trong bối cảnh thị trường gia tăng lo ngại về nguồn cung dầu thô tăng và nhưng nhu cầu cũng chịu áp lực bởi lãi suất tăng cao.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 1,49 USD tương đương 1,6% xuống 90,71 USD/thùng, tương đương giảm khoảng 5% so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 hôm đáo hạn (thứ Sáu). Đây là mức giảm phần trăm hàng ngày mạnh nhất kể từ tháng 5 đối với hợp đồng kỳ hạn giao sau 1 tháng.
Dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) phiên này cũng giảm 1,97 USD tương đương 2,2% xuống 88,82 USD/thùng.
Vào ngày đầu tiên của tháng trước, giá dầu Brent kỳ hạn giao tháng 12 giảm 1,49 USD, tương đương 1,6%, so với phiên liền trước xuống 90,71 USD/thùng.
Các nhà phân tích cho biết giá giảm do các thương nhân bán chốt lời sau khi giá dầu thô tăng gần 30% lên mức cao nhất 10 tháng trong quý 3/2023.
Đồng thời, đồng USD tăng lên mức cao nhất 10 tháng so với giỏ các đồng tiền chủ chốt sau khi chính phủ Mỹ tránh được việc đóng cửa 1 phần và số liệu kinh tế thúc đẩy kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ giữ lãi suất ở mức cao hơn và dài hơn, điều này có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế.
Trước khi giá dầu thô giảm bắt đầu vào ngày 28 tháng 9, các nhà đầu cơ Mỹ đã tăng vị thế mua ròng các hợp đồng quyền chọn và hợp đồng kỳ hạn tương lai trên Sàn giao dịch hàng hóa và liên lục địa New York lên mức cao nhất kể từ tháng 5 năm 2022, theo Ủy ban giao dịch hàng hóa tương lai Mỹ.
Các nhà phân tích thuộc công ty tư vấn năng lượng Gelber and Associates cho biết: “Rất có khả năng hoạt động chốt lời của các nhà đầu cơ hiện đang đóng một vai trò nào đó (trong đợt giảm giá gần đây) và sẽ theo thời gian sẽ không còn gây áp lực lên thị trường nữa”.
Đồng USD phiên này tăng lên mức cao nhất trong 10 tháng so với rổ các loại tiền tệ khác sau khi chính phủ Mỹ tránh được việc đóng cửa một phần và dữ liệu kinh tế làm tăng kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang ỳ sẽ giữ lãi suất cao trong thời gian lâu hơn dự kiến, từ đó có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế.
Lãi suất tăng cao cùng với đồng USD tăng mạnh khiến giá dầu trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác, có thể làm giảm nhu cầu dầu.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc công ty phân tích và dữ liệu OANDA, cho biết: “Triển vọng toàn cầu đang xấu đi nhanh chóng và điều đó vừa thúc đẩy giao dịch đồng đô la trở lại vừa gây áp lực lên triển vọng nhu cầu dầu thô”.
Tại châu Âu, dữ liệu sản xuất cho thấy khu vực đồng euro, Đức và Anh vẫn sa lầy trong tình trạng suy thoái trong tháng 9.
Tại Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, Ngân hàng Thế giới duy trì dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2023 ở mức 5,1%, nhưng hạ dự báo cho năm 2024, với lý do lĩnh vực bất động sản tiếp tục yếu kém.
Trong khi đó, nguồn cung dầu sắp tới sẽ gia tăng. Bộ trưởng năng lượng Thổ Nhĩ Kỳ cho biết trong tuần này sẽ khởi động lại hoạt động trên đường ống từ Iraq đã bị tạm ngừng khoảng sáu tháng.
Ngoài ra, Saudi Arabia có thể bắt đầu nới lỏng việc cắt giảm nguồn cung tự nguyện bổ sung 1 triệu thùng mỗi ngày, các nhà phân tích của ING cho biết.
OPEC+, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cùng với Nga và các đồng minh khác, sẽ nhóm họp vào thứ Tư nhưng khó có khả năng điều chỉnh chính sách sản lượng dầu hiện tại của mình.
Một cuộc khảo sát của Reuters cho thấy sản lượng dầu của OPEC tăng tháng thứ hai liên tiếp trong tháng 9 bất chấp việc cắt giảm sản lượng của Saudi Arabia.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm phiên thứ 6 liên tiếp xuống mức thấp nhất gần 7 tháng do đồng USD tăng mạnh và triển vọng lãi suất Mỹ tăng cao khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn.
Cuối phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 1.831,7 USD/ounce – thấp nhất kể từ đầu tháng 3/2023; vàng kỳ hạn tháng 12 giảm 1% xuống 1.847,2 USD/ounce.
Cũng trong phiên này, giá bạc giao ngay giảm 4,2% xuống mức thấp nhất hơn 6 tháng (21,23 USD/ounce); bạch kim giảm 2,8% xuống 879,42 USD và palađi giảm 3,1% xuống 1.207,51 USD.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao của Kitco Metals, cho biết: “Có dự đoán rằng lãi suất sẽ cao hơn trong thời gian dài hơn nữa, đây là yếu tố gây giảm giá trên thị trường quý giá. Giá vàng có thể xuống dưới 1.800 USD trong thời gian tới”.
“Thị trường tiền tệ có xu hướng mạnh lên và kéo dài hơn. Việc USD tăng giá có thể không kết thúc sớm, gây áp lực lên thị trường vàng.”
Đồng USD tăng 0,6% khiến vàng thỏi trở nên kém hấp dẫn hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Theo công cụ FedWatch của CME, các nhà giao dịch đang định giá 55% khả năng Cục Dự trữ Liên bang sẽ giữ nguyên lãi suất ở mức 5,25% -5,50% hiện tại trong năm nay.
Thống đốc Liên bang Michelle Bowman cho biết bà vẫn sẵn sàng ủng hộ một đợt tăng lãi suất thêm nữa nếu dữ liệu đến cho thấy tiến trình giảm lạm phát đang bị đình trệ hoặc diễn ra quá chậm. Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Giám sát Fed Michael Barr cho biết lãi suất "đã chạm hoặc gần chạm" mức đỉnh.
Kể từ khi giá vàng vượt ngưỡng quan trọng 2.000 USD/ounce đầu tháng 5/2023, giá đã giảm hơn 11%, tương đương 230 USD/ounce, do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng mạnh, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập ở New York, cho biết: “Việc các ngân hàng trung ương mua vào khi giá giảm hiện không còn nữa.
Trọng tâm chú ý của thị trường hiện chuyển sang dữ liệu cơ hội việc làm, số lượng tuyển dụng tư nhân và bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ, sẽ công bố trong tuần này.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm đạt mức cao nhất 5 tháng lúc đầu phiên giao dịch do thị trường nhận thấy nhu cầu ổn định ở nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc, lượng tồn trữ giảm và hoạt động trong lĩnh vực sản xuất của nước này.
Tuy nhiên, đồng tiền Mỹ mạnh lên khiến kim loại được định giá bằng đồng đô la trở nên đắt hơn đối với người nắm giữ các loại tiền tệ khác, gây áp lực lên giá kim loại công nghiệp giao dịch trên Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME), đẩy giá nhôm giảm trwor lại vào cuối phiên.
Một số hoạt động chốt lời và bán ra của nhà sản xuất gây áp lực lên sàn LME, khiến giá giảm 1% xuống 2.324 USD/tấn, trước đó có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 2 tháng 5, là 2.367 USD.
Giá nhôm trên sàn London giảm 1% xuống 2.324 USD/tấn, trong đầu phiên giao dịch giá nhôm đạt mức cao nhất kể từ ngày 2/5/2023 (2.367 USD/tấn).
Một thương nhân cho biết: “Có vẻ như nhu cầu nhôm của Trung Quốc trong vài tháng qua đã được cải thiện”, đồng thời cho biết thêm điều này có thể thấy được qua việc lượng hàng tồn kho tại các kho được giám sát bởi Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (ShFE) giảm.
Tồn trữ nhôm tại Thượng Hải đạt 79.194 tấn, giảm 75% kể từ giữa tháng 5/2023 và chạm mức thấp nhất kể từ tháng 12/2016.
Các nhà phân tích của Macquarie cho biết lượng tồn trữ nhôm ShFE giảm "phần lớn là do nhu cầu trong nước ổn định, trong đó năng lượng mới... và năng lượng là những lĩnh vực sử dụng quan trọng".
Trong các kho được LME phê duyệt, lượng nhôm tồn kho ở mức 486.775, giảm 17% kể từ tháng 6 và nhiều kim loại khác sẽ rời khỏi hệ thống LME.
Một yếu tố khác cũng hỗ trợ là việc Trung Quốc mở rộng lĩnh vực sản xuất trong tháng 9, mặc dù với tốc độ chậm hơn so với tháng 8, đã giúp củng cố kỳ vọng rằng quốc gia tiêu dùng kim loại công nghiệp hàng đầu thế giới đang ổn định.
Đối với kim loại đồng, tình trạng bán tháo, trở nên trầm trọng hơn do tính thanh khoản thấp bởi kỳ nghỉ lễ ở Trung Quốc, đã tăng tốc sau khi thị trường New York mở cửa, đẩy giá trên sàn LME xuống mức thấp nhất 4 tháng, là 8.048,5 USD/tấn.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn LME kết thúc phiên giảm 2,6% ở mức 8.055 USD/tấn, kẽm giảm 2,1% xuống 2.592 USD, chì 3 giảm 1,2% xuống 2.145 USD, thiếc giảm 1,7% xuống 23.545 USD và niken tăng 0,6% lên 18.800 USD.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ tăng sau khi giảm hơn 6% xuống mức thấp nhất 3 năm trong phiên trước đó. Giá ngô tăng theo lúa mì, riêng đậu tương vẫn ở mức thấp sau khi có tin tức về việc nông dân Brazil trồng đậu tương với tốc độ tăng nhanh.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì tăng 23-1,4 US cent, tương đương 4%, lên 5,64-3/4 USD/bushel. Trong phiên trước đó, giá lúa mì giảm xuống thấp nhất kể từ ngày 30/9/2020 (5,4 USD/bushel). Giá ngô tăng 12 US cent, tương đương hơn 2,5%, lên 4,88-3/4 USD/bushel. Giá đậu tương tăng 2 US cent lên 12,77 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE giảm 0,13 US cent, tương đương 0,5%, xuống 26,35 US cent/lb. Hợp đồng kỳ hạn tháng 10 hết hạn vào thứ Sáu với lượng giao hàng kỷ lục 2,87 triệu tấn, thường được coi là chỉ báo giảm giá.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn London giảm 4,2 USD tương đương 0,6% xuống 701,7 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn ICE tăng 2,95 US cent tương đương 2% lên 1,491 USD/lb; cà phê kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn London vững ở mức 2.461 USD/tấn.
Giá cao su trên thị trường Nhật tăng phiên thứ 2 liên tiếp do đồng JPY yếu. Tuy nhiên, lượng giao dịch trầm lắng do thị trường Trung Quốc đóng cửa nghỉ lễ.
Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn Osaka tăng 1,5 JPY tương đương 0,6% lên 236,8 JPY/kg; cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Singapore tăng 0,6% lên 140,6 US cent/kg.
Đồng USD ổn định trong phiên vừa qua, nhưng vẫn gần mức cao nhất 10 tháng, khi các nhà đầu tư dự kiến lãi suất của Mỹ sẽ ở mức cao trong thời gian dài hơn, trong khi đồng JPY giảm xuống 150/USD và chạm gần mức thấp nhất 1 năm.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
88,18
|
-0,64
|
-0,72%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
90,07
|
-0,64
|
-0,71%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
85.250,00
|
-2.080,00
|
-2,38%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,83
|
-0,01
|
-0,28%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
240,07
|
-1,15
|
-0,48%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
321,77
|
-0,48
|
-0,15%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
975,00
|
+5,25
|
+0,54%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
82.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.840,60
|
-6,60
|
-0,36%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.789,00
|
-69,00
|
-0,78%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,06
|
-0,36
|
-1,69%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
104,00
|
-2,10
|
-1,98%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
877,19
|
-4,51
|
-0,51%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.209,95
|
+0,66
|
+0,05%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
362,50
|
-1,65
|
-0,45%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.053,00
|
-217,50
|
-2,63%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.321,00
|
-26,00
|
-1,11%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.600,50
|
-49,00
|
-1,85%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
23.496,00
|
-448,00
|
-1,87%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
486,50
|
-2,25
|
-0,46%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
564,25
|
-0,50
|
-0,09%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
430,00
|
-4,50
|
-1,04%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,88
|
-0,03
|
-0,19%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.270,25
|
-6,75
|
-0,53%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
370,00
|
-4,30
|
-1,15%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
57,71
|
+0,28
|
+0,49%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
711,10
|
+4,10
|
+0,58%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.502,00
|
+84,00
|
+2,46%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
149,10
|
+2,95
|
+2,02%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
26,35
|
-0,13
|
-0,49%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
354,80
|
+5,05
|
+1,44%
|
Bông
|
US cent/lb
|
87,59
|
-0,16
|
-0,18%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
141,60
|
-0,30
|
-0,21%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|