Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 3% lên mức cao nhất kể từ đầu năm đến nay sau khi tồn kho dầu thô của Mỹ giảm mạnh làm tăng thêm lo ngại về nguồn cung toàn cầu thắt chặt.
Dầu thô Brent lúc kết thúc phiên giao dịch tăng 2,59 USD, tương đương 2,8%, lên 96,55 USD. Trong phiên có lúc giá phá vỡ mức 97 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 3,29 USD, tương đương 3,6%, lên 93,68 USD. Mức cao nhất trong phiên là hơn 94 USD.
Dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 2,2 triệu thùng trong tuần trước xuống 416,3 triệu thùng, vượt xa mức giảm 320.000 thùng mà các nhà phân tích dự kiến trong cuộc thăm dò của Reuters.
Dữ liệu cũng cho thấy tồn kho dầu thô tại Cushing, Oklahoma, trung tâm lưu trữ, điểm phân phối dầu thô kỳ hạn của Mỹ, giảm 943.000 thùng trong vòng một tuần, xuống chỉ dưới 22 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 7 năm 2022.
Andrew Lipow, chủ tịch của Lipow Oil Associates cho biết: “Thị trường đang được dẫn dắt bởi số lượng kho dự trữ khi chúng tôi sắp đạt mức tồn kho hoạt động tối thiểu tại Cushing”.
Các kho dự trữ tại Cushing đã giảm gần đến mức thấp lịch sử do nhu cầu lọc dầu và xuất khẩu mạnh, gây ra lo ngại về chất lượng của lượng dầu còn lại tại trung tâm và liệu nó có giảm xuống dưới mức vận hành tối thiểu hay không.
Giá giảm trong tuần trước nhưng tuần này tăng trở lại do thị trường lo lắng về nguồn cung khan hiếm khi sắp bước vào mùa đông, sau khi Saudi Arabia và Nga cắt giảm sản lượng 1,3 triệu thùng/ngày đến cuối năm.
Ole Hansen, Giám đốc Chiến lược Hàng hóa của Ngân hàng Saxo, cho biết: “Cho đến khi quyết định tăng sản lượng được đưa ra, thị trường năng lượng toàn cầu sẽ vẫn thắt chặt”.
Một yếu tố nữa có khả năng làm nguồn cung thắt chặt hơn, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh cho chính phủ của ông đảm bảo giá nhiên liệu bán lẻ ổn định sau khi tăng vọt do xuất khẩu tăng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục giảm phiên thứ 3 liên tiếp do sức hấp dẫn của vàng thỏi - không sinh lãi - bị ảnh hưởng bởi thị trường đặt cược rằng Cục Dự trữ Liên bang có thể giữ lãi suất ở mức cao, trong khi các nhà giao dịch hy vọng sẽ có thêm tín hiệu từ con số lạm phát của Mỹ - sẽ công bố trong tuần này.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 1,4% xuống 1.874,34 USD/ounce, thấp nhất trong hơn 6 tháng; vàng giao sau giảm 1,5% xuống 1.890,90 USD.
Triển vọng về lãi suất cao hơn trong thời gian dài của Mỹ đã khiến các nhà đầu tư đổ xô tìm đến đồng đô la an toàn, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Càng làm giảm nhu cầu đối với vàng lãi suất trái phiếu kho bạc cũng vẫn ở mức gần mức cao nhất trong 16 năm.
Ryan McKay, chiến lược gia hàng hóa thuộc TD Securities, cho biết: “Chừng nào lãi suất còn cao hơn trong thời gian dài, điều đó sẽ tiếp tục gây áp lực lên kim loại quý”.
“Nếu dữ liệu (lạm phát) tiếp tục mạnh hơn, đó sẽ là một yếu tố khác tiếp tục đè nặng lên vàng.”
Chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ, thước đo lạm phát ưa thích của Fed, sẽ được công bố vào thứ Sáu.
Tuy nhiên, nhà phân tích Soni Kumari của ANZ cho biết: “Nếu con số lạm phát giảm, chúng ta có thể thấy một số hỗ trợ đến với vàng và dự đoán về việc thắt chặt chính sách tiền tệ có thể giảm đi một chút”.
Chủ tịch Fed Minneapolis Neel Kashkari hôm thứ Ba cho biết nhiều khả năng nền kinh tế Mỹ sẽ "hạ cánh nhẹ nhàng", nhưng cũng có 40% khả năng Fed sẽ cần tăng lãi suất một cách "có ý nghĩa" để đánh bại lạm phát.
Mặt khác, vàng tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ nhu cầu vật chất mạnh mẽ, đặc biệt là từ các ngân hàng trung ương và Trung Quốc, mặc dù “động lực trong ngắn hạn chắc chắn là từ Fed”, ông McKay của TD cho biết.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,7% xuống 22,47 USD/ounce, mức thấp nhất trong hai tuần; bạch kim giảm khoảng 2,2% xuống còn 883,94 USD và palladium giảm 0,3% xuống 1.219,48 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng dao động gần mức thấp nhất 4 tháng do những rắc rối trên thị trường bất động sản của Trung Quốc, trong bối cảnh thị trường chờ đợi dữ liệu về lĩnh vực công nghiệp của nước này, sẽ được công bố vào cuối tuần này.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London tăng 0,2% lên 8.104 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất trong phiên trước đó là 8.071 USD. Được sử dụng trong điện và xây dựng, đồng đầu tuần này đạt 8.068 USD, mức giá thấp nhất kể từ cuối tháng 5.
Diễn biến mới nhất trên thị trường bất động sản đang bị đình trệ của Trung Quốc là thông tin từ Bloomberg News cho biết chủ tịch của nhà phát triển bất động sản Evergrande đang bị cảnh sát giám sát, càng làm tăng thêm lo ngại về tương lai của Evergrande.
Một nhà giao dịch kim loại cho biết: “Điều đó nêu bật mức độ bấp bênh cũng như những vấn đề mà nhu cầu đồng cũng như kim loại công nghiệp nói chung phải đối mặt”. “Đồng đô la mạnh là một cơn gió ngược lớn khác.”
Đồng tiền của Mỹ đạt mức cao nhất trong 10 tháng so với các đồng tiền chủ chốt, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng đô la trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, từ đó làm giảm nhu cầu.
Lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc giảm mạnh trong 8 tháng đầu năm cũng gây áp lực lên thị trường khi thị trường chờ đợi cuộc khảo sát các nhà quản lý mua hàng trong lĩnh vực sản xuất vào cuối tuần này. Trọng tâm chú ý sẽ là các đơn đặt hàng mới và xuất khẩu.
Trong khi đó, giá chì chịu áp lực bởi lượng tồn trữ của sàn LME tăng hơn 40% trong vài tuần qua. Kết thúc phiên, giá chì giảm 1,5% xuống 2.154 USD/tấn, giảm 5% kể từ ngày 15 tháng 9. Giá nhôm giảm 0,1% xuống 2.242 USD, kẽm giảm 1,2% xuống 2.482 USD, thiếc giảm 1,5% xuống 25.625 USD và niken tăng 0,4% lên 18.960 USD.
Giá quặng sắt phục hồi vào thứ Tư, do dữ liệu lợi nhuận công nghiệp tốt hơn mong đợi tại quốc gia tiêu dùng quặng sắt hàng đầu thế giới - Trung Quốc - đã làm phấn chấn tâm lý nhà đầu tư, mặc dù vẫn còn đó mối lo ngại về nhu cầu trong bối cảnh thị trường bất động sản bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng của nước này vẫn là một trở ngại.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc – hợp đồng được giao dịch nhiều nhất - tăng 0,77% lên 848 nhân dân tệ (116,17 USD)/tấn. Quặng sắt kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,3% lên 116,5 USD/tấn.
Giá thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải nhìn chung giảm. Thép cây giảm 0,19%, thép cuộn cán nóng giảm 0,26% và thép không gỉ giảm 1,1%.
Dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia (NBS) cho thấy lợi nhuận tại các công ty công nghiệp Trung Quốc trong tháng 8 đã tăng 17,2% so với cùng kỳ năm ngoái, so với mức giảm 6,7% trong tháng 7.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc hôm thứ Tư cho biết họ sẽ thực hiện chính sách tiền tệ một cách “chính xác và mạnh mẽ” để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Quặng sắt - nguyên liệu quan trọng trong sản xuất thép - đã phục hồi sau khi giảm 2 phiên liền trước do kỳ nghỉ lễ sắp tới sau khi đợt bổ sung hàng loạt trước kỳ nghỉ lễ. Thị trường tại quốc gia sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc sẽ đóng cửa nghỉ lễ từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 29 tháng 10.
Các nhà phân tích tại ngân hàng ANZ cho biết, thị trường vẫn dễ bị tổn thương do tỷ suất lợi nhuận thép bị thu hẹp và “vấn đề nợ mới của các nhà phát triển bất động sản Trung Quốc”.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ - một nguyên liệu sản xuất ethanol - kỳ hạn tương lại phục hồi sau khi giảm ở phiên trước đó do giá năng lượng tăng. Giá đậu tương và dầu đậu tương cũng tăng theo giá dầu. Trong khi đó, giá lúa mì kỳ hạn giảm trên sàn Chicago và giá lúa mì cứng vụ đông trên sàn Kansas City chạm mức thấp nhất trong hai năm.
Hợp đồng ngô kỳ hạn tham chiếu trên sàn Chicago kết thúc phiên tăng 3-1/2 cent ở mức 4,83-1/4 USD/bushel, sau khi có thời điểm tăng lên 4,86-3/4 USD, mức giá cao nhất kể từ ngày 12 tháng 9. Giá ngô kỳ hạn đã tăng khoảng 3% kể từ ngày 18 tháng 9, khi chạm thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2020. Trong khi đó, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 1/2 cent ở mức 13,03-1/4 USD/bushel, ngay dưới mức trung bình động 100 ngày. Giá lúa mì kết thúc phiên giảm 9-1/2 cent xuống còn 5,79-1/2 USD/bushel sau khi các thương nhân cho biết ngũ cốc của Bulgaria và Romania được trả giá thấp hơn so với giá chào của Nga trong phiên đấu thầu lúa mì ở Ai Cập.
Trung Quốc đã tăng giá mua tối thiểu đối với lúa mì loại ba sản xuất năm 2024 lên 2.360 nhân dân tệ (323 USD)/tấn. Quyết định này dựa trên chi phí sản xuất, cung và cầu, giá cả thị trường trong nước và toàn cầu cũng như các yếu tố khác.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,11 cent, tương đương 0,4%, lên 26,13 cent/lb do thị trường tiếp tục củng cố ở gần sát mức cao nhất 12 năm thiết lập vào tuần trước. Đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 1,40 USD, tương đương 0,2%, xuống 709,30 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường sẽ tiếp tục thắt chặt trong mùa 2023/24 sắp tới, một phần do sản lượng có thể sụt giảm ở châu Á do hiện tượng thời tiết El Nino. Tuy nhiên, sản lượng ở Brazil vẫn ở mức gần cao kỷ lục trong mùa này.
Trung Quốc sẽ tiếp tục tổ chức đấu giá thêm lượng đường dự trữ trong thời gian tới để đảm bảo sự ổn định của giá cả và nguồn cung trong nước, trung tâm quản lý dự trữ nhà nước cho biết trong một thông báo hôm thứ Ba.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 1,6 cent, tương đương 1,1%, xuống 1,4925 USD/lb; cà phê Robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 9 USD, tương đương 0,4%, xuống 2.447 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường tiếp tục theo dõi chặt chẽ thời tiết ở Brazil, nước trồng cà phê hàng đầu, nơi cần mưa trong những tuần tới để hỗ trợ cây ra hoa.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tương đối ổn định do hy vọng về những chương trình kích thích kinh tế ở Trung Quốc bị bù đắp cho hiệu quả kinh tế kém ở Nhật Bản.
Hợp đồng cao su giao tháng 3/2024 của sàn Osaka Exchange kết thúc phiên không đổi, ở mức 235,3 yên (1,58 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 1/2024 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 170 nhân dân tệ, tương đương 1,2%, xuống mức 13.810 nhân dân tệ (1.890,74 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 10 trên nền tảng SICOM của sàn Singapore Exchange được giao dịch lần cuối ở mức 136,5 US cent/kg, giảm 0,5%.
Tại nước tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc, chứng khoán tăng điểm vào thứ Tư, sau khi dữ liệu cho thấy sự sụt giảm lợi nhuận công nghiệp đang giảm bớt nhờ sự hỗ trợ chính sách, với lời hứa của ngân hàng trung ương về việc thúc đẩy sự phục hồi cũng giúp cải thiện tâm lý.
Giá dầu tăng mạnh cũng thúc đẩy giá cao su đi lên, thị trường tập trung vào vấn đề nguồn cung thắt chặt trong khi mùa đông sắp đến và nền kinh tế Mỹ “hạ cánh nhẹ nhàng”.
Cao su tự nhiên thường chịu sự tác động từ điều chỉnh của giá dầu khi cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp được sản xuất từ dầu thô.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
93,80
|
+3,41
|
+3,77%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
96,69
|
+2,73
|
+2,91%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
86.630,00
|
+50,00
|
+0,06%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,74
|
+0,09
|
+3,28%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
262,29
|
+6,07
|
+2,37%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
330,14
|
+7,76
|
+2,41%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
981,75
|
+27,25
|
+2,85%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
84.000,00
|
-3.000,00
|
-3,45%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.897,70
|
-22,10
|
-1,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
9.041,00
|
-55,00
|
-0,60%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
22,81
|
-0,39
|
-1,69%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
110,10
|
-0,40
|
-0,36%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
891,88
|
-15,75
|
-1,74%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.216,86
|
-14,23
|
-1,16%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
364,50
|
-0,40
|
-0,11%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.091,00
|
-54,50
|
-0,67%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.243,50
|
+10,00
|
+0,45%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.511,00
|
-21,00
|
-0,83%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
26.012,00
|
+124,00
|
+0,48%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
483,50
|
+3,75
|
+0,78%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
580,25
|
-8,75
|
-1,49%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
440,25
|
+7,25
|
+1,67%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,14
|
-0,05
|
-0,34%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.304,00
|
+1,25
|
+0,10%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
390,50
|
-2,20
|
-0,56%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
58,40
|
+0,69
|
+1,20%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
725,30
|
+11,10
|
+1,55%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.441,00
|
-59,00
|
-1,69%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
149,30
|
-1,55
|
-1,03%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
26,55
|
+0,31
|
+1,18%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
361,90
|
+12,50
|
+3,58%
|
Bông
|
US cent/lb
|
88,45
|
+0,27
|
+0,31%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
139,70
|
-0,40
|
-0,29%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|