Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh nhất trong nhiều tháng
Trong phiên cuối tuần, giá dầu giảm hơn 1 USD/thùng và lo ngại về lĩnh vực ngân hàng khiến cả hai loại dầu đều có tuần giảm mạnh nhất trong nhiều tháng.
Kết thúc phiên cuối tuần 17/3, giá dầu thế giới đi xuống, đảo chiều sau khi tăng hơn 1 USD/thùng lúc đầu phiên. Theo đó, dầu Brent giảm 1,73 USD, tương đương 2,3% xuống 72,97 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,61 USD, tương đương 2,4%, xuống 66,74 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm gần 12% - tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 12/2022. Giá dầu WTI giảm 13% - tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 4/2022.
John Kilduff, đối tác tại công ty quản lý vốn Again Capital LLC ở New York, nhận định các sự kiện đang diễn ra không quá nghiêm trọng như những gì thị trường đánh giá, song có lo ngại rằng dầu không phải là nơi trú ẩn an toàn như tiền mặt hay vàng. Giá dầu đang “theo chân” các thị trường chứng khoán bởi lo ngại về suy thoái kinh tế có thể xảy ra và cuộc khủng hoảng ngành ngân hàng đang diễn ra hiện nay.
Giá dầu giảm theo xu hướng thị trường chứng khoán giảm, do khủng hoảng trong lĩnh vực ngân hàng và lo ngại về suy thoái kinh tế có thể xảy ra.
Cả ba chỉ số đều giảm mạnh trong phiên giao dịch buổi chiều, với cổ phiếu tài chính giảm nhiều nhất trong số các lĩnh vực chính của S&P 500 sau sự cố của Ngân hàng Silicon Valley (SVB) và Ngân hàng Signature và rắc rối tại Credit Suisse và Ngân hàng First Republic.
Các thành viên OPEC+ cho rằng sự suy yếu về giá trong tuần này là do các động lực tài chính hơn là do bất kỳ sự mất cân bằng cung cầu nào, đồng thời cho biết thêm rằng họ kỳ vọng thị trường sẽ ổn định.
Giá dầu WTI trong tuần này giảm xuống dưới 70 USD/thùng – lần đầu tiên – kể từ tháng 12/2021, có thể thúc đẩy chính phủ Mỹ bắt đầu đổ đầy kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược và thúc đẩy nhu cầu.
Và các nhà phân tích kỳ vọng sự phục hồi nhu cầu của Trung Quốc sẽ hỗ trợ giá, với xuất khẩu dầu thô của Mỹ sang Trung Quốc trong tháng 3 hướng tới mức cao nhất trong gần hai năm rưỡi.
Saudi Arabia và Nga trong một cuộc họp hôm thứ Năm đã khẳng định cam kết của họ đối với quyết định của OPEC + vào tháng 10 năm ngoái về việc cắt giảm mục tiêu sản xuất hai triệu thùng mỗi ngày cho đến cuối năm 2023.
Kim loại quý: Giá vàng trong tuần tăng mạnh nhất 3 năm
Giá vàng tăng hơn 2% trong phiên cuối tuần do một số ngân hàng Mỹ và Châu Âu gặp sự cố làm rung chuyển thị trường toàn cầu và khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ít giảm tích cực trong cuộc chiến chống lạm phát, đẩy giá vàng có tuần tăng mạnh nhất 3 năm.
Kết thúc phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay tăng 2,8% lên 1.971,95 USD/ounce - cao nhất kể từ tháng 4/2022. Tính chung cả tuần, giá vàng tăng 5,6% - tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 3/2020. Vàng kỳ hạn tháng 4/2023 phiên này tăng 2,6% lên 1.973,5 USD/ounce. Đồng USD và thị trường chứng khoán giảm khiến vàng trở thành kênh đầu tư hấp dẫn hơn.
Tai Wong, một nhà kinh doanh kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết: “Vàng đang tăng giá do lo ngại rằng nhiều tin tức ngân hàng xấu có thể xuất hiện vào cuối tuần và hy vọng rằng Fed sẽ tạm dừng tăng lãi suất vào tuần tới”.
Lukman Otunuga, nhà phân tích nghiên cứu cấp cao tại sàn giao dịch ngoại hối FXTM cho biết vàng có khả năng tỏa sáng trong giai đoạn bất ổn khi các nhà đầu tư bước vào trạng thái thận trọng.
Đồng USD và thị trường chứng khoán trượt dốc khiến vàng trở thành khoản đầu tư hấp dẫn hơn. Mặc dù vàng được coi là kênh đầu tư an toàn trước trong giai đoạn bất ổn kinh tế, nhưng chi phí cơ hội nắm giữ vàng tăng lên khi lãi suất tăng.
Hầu hết các nhà kinh tế tham gia khảo sát của hãng tin Reuters dự đoán Fed sẽ tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm tại cuộc họp ngày 22/3 bất chấp những bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng gần đây.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên cuối tuần tăng 3,1% lên 22,38 USD/ounce; tính chung cả tuần tăng mạnh nhất trong số 4 kim loại quý. Giá bạch kim phiên này tăng 0,1% lên 974,21 USD, trong khi palladium giảm 2% xuống 1.401,63 USD.
"Việc thắt chặt đột ngột các điều kiện tài chính sẽ không giúp ích gì cho palladium, kim loại được sử dụng chủ yếu trong công nghiệp mặc dù về mặt kỹ thuật, nó nằm trong nhóm kim loại quý," ông Wong nói, đồng thời cho biết thêm rằng bạch kim "đã có hiệu suất kém triền miên và đang phải chật vật để làm thay đổi tiếng tăm này".
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và quặng sắt giảm
Giá đồng tăng trong phiên cuối tuần, song do giảm mạnh vào đầu tuần song tính chung cả tuần giảm do cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực ngân hàng, có thể làm chậm lại đà tăng trưởng kinh tế.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, trên sàn London, giá đồng tăng 0,8% lên 8.584,5 USD/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá đồng giảm hơn 3%.
Trong phiên ngày 15/3/2023, giá đồng giảm 3,7% do sự cố của 2 công ty cho vay cỡ trung bình của Mỹ, sau đó là ngân hàng Credit Suisse của Thụy Sĩ. Giá đồng chạm mức thấp nhất 10 tuần (8.442 USD/tấn) trong phiên trước đó.
Ole Hansen, chiến lược gia của Ngân hàng Saxo, cho biết tâm trạng trên các thị trường rộng lớn hơn sẽ quyết định biến động giá trong ngắn hạn của đồng, mặc dù ông kỳ vọng các nguyên tắc cơ bản mạnh mẽ sẽ sớm nâng giá lên.
Các nhà phân tích của Citi cho biết họ dự đoán giá đồng sẽ giảm xuống 8.000 USD/tấn trong những tháng tới trong bối cảnh lo ngại về hệ thống ngân hàng và tăng trưởng tín dụng của Mỹ.
Họ nói: “Chúng tôi coi đây là một cơ hội mua mạnh mẽ trong dài hạn,” đồng thời dự đoán rằng giá sẽ phục hồi lên 9.000 USD trong vòng 6 đến 12 tháng.
Tại quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới - Trung Quốc, nhu cầu đang phục hồi và có khả năng duy trì mạnh trong quý tới, nhờ nhu cầu cao nhất theo mùa và nới lỏng các hạn chế do COVID-19.
Thêm động lực cho sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc, ngân hàng trung ương của nước này có kế hoạch cắt giảm lượng tiền mặt mà các ngân hàng phải dự trữ.
Những kim loại công nghiệp khác cũng tăng trong phiên cuối tuần, với nhôm tăng 0,4% lên 2.276 USD/tấn, kẽm tăng 1,6% lên 2.903 USD, niken tăng 0,7% lên 23.405 USD, chì tăng 1,3% lên 2.093 USD và thiếc tăng 1,2% lên 22.475 USD. Tính chung cả tuần, giá niken và chì tăng nhẹ, trong khi nhôm, kẽm và thiếc giảm nhẹ trong tuần.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tăng nhẹ trong phiên cuối tuần do giảm bớt lo ngại về tình trạng khủng hoảng ngân hàng, song mức tăng bị hạn chế do khả năng Trung Quốc hạn chế sản lượng thép tại trong năm nay.
Kết thúc phiên này, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên tăng 0,4% lên 915 CNY (133,1 USD/tấn). Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá đồng giảm hơn 2% và có tuần giảm đầu tiên trong 6 tuần. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Singapore tăng 0,5% lên 129,85 USD/tấn. Trong đầu phiên giao dịch, giá quặng sắt chạm 126,85 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 9/3/2023. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,2%, thép cuộn cán nóng tăng 0,1%, trong khi thép cuộn giảm 0,6%, thép không gỉ không thay đổi.
Nông sản: Giá ngô tăng, đậu tương và cao su giảm
Giá lúa mì và ngô trên sàn Chicago có tuần tăng – lần đầu tiên – trong 5 tuần, do nhu cầu đối với xuất khẩu ngô Mỹ tăng và lo ngại về thỏa thuận gia hạn ngũ cốc tại Biển Đen.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 5/2023 tăng 11-1/2 US cent lên 7,1-1/2 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá lúa mì có tuần tăng đầu tiên trong 5 tuần. Giá ngô kỳ hạn tháng 5/2023 tăng 1-1/2 US cent lên 6,34-1/4 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá ngô có tuần tăng đầu tiên trong 5 tuần. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 15 US cent xuống 14,76-1/2 USD/bushel và có tuần giảm thứ 5 liên tiếp.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã đưa ra thông báo ngày thứ tư liên tiếp về việc bán ngô vụ cũ của Mỹ cho Trung Quốc, tổng cộng 2,1 triệu tấn trong bốn ngày.
Jack Scoville, nhà phân tích của Price Futures Group ở Chicago, cho biết: “Tôi nghĩ chúng ta sẽ tiếp tục chứng kiến xuất khẩu ngô tăng mạnh và tôi nghĩ điều đó sẽ giúp hỗ trợ giá ngô”.
Đồng đô la yếu hơn đã hỗ trợ một số mặt hàng của Mỹ khi nhà đầu tư trở lại với những tài sản rủi ro.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn ICE giảm 0,09 US cent tương đương 0,4% xuống 20,67 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London giảm 0,5 USD tương đương 0,1% xuống 585,1 USD/tấn.
Các đại lý cho biết bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng tuần này đã giúp đưa thị trường vào thế phòng thủ. Tuy nhiên, lo ngại về triển vọng sản xuất suy giảm ở Liên minh châu Âu và các quốc gia bao gồm Ấn Độ, Thái Lan và Trung Quốc tiếp tục củng cố thị trường.
Các nhà máy Ấn Độ đã sản xuất 28,2 triệu tấn đường kể từ niên vụ hiện tại, bắt đầu vào ngày 1 tháng 10, giảm 1% so với cùng kỳ năm ngoái, Hiệp hội các nhà máy đường Ấn Độ cho biết hôm thứ Sáu.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 giảm 3,45 cent, tương đương 1,9%, xuống 1,766 USD/lb; cà phê robusta giao cùng kỳ hạn giảm 40 USD, tương đương 1,9%, ở mức 2.064 USD/tấn.
Các đại lý lưu ý rằng dự trữ cà phê arabica trên sàn giao dịch đang tăng trở lại sau khi gần đây giảm xuống mức thấp nhất trong năm dương lịch. Dự trữ cà phê arabica được chứng nhận tại Sàn giao dịch Liên lục địa ở mức 788.915 bao loại 60 kg vào ngày 16 tháng 3, cao nhất trong hơn hai tuần.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng, song tính chung cả tuần giảm do các thương nhân vẫn thận trọng trong bối cảnh chính sách tiền tệ toàn cầu thắt chặt và lo ngại về cuộc khủng hoảng ngân hàng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Osaka (OSE) tăng 0,6 JPY tương đương 0,3% lên 208,5 JPY (1,57 USD)/kg. Giá cao su trên sàn OSE tăng lần đầu tiên trong 11 phiên, song có tuần giảm 4,9% - tuần giảm thứ 2 liên tiếp.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 55 CNY xuống 11.675 CNY (1.699,49 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Singapore tăng 0,5% lên 130,2 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 10/3
|
Giá 17/3
|
17/3 so với 16/3
|
17/3 so với 16/3 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,68
|
76,68
|
+0,96
|
+1,27%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
82,78
|
82,78
|
+1,19
|
+1,46%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.450,00
|
66.450,00
|
+590,00
|
+0,90%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,43
|
2,43
|
-0,11
|
-4,44%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
264,58
|
264,58
|
+4,07
|
+1,56%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
277,29
|
277,29
|
+10,40
|
+3,90%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
812,25
|
812,25
|
+11,25
|
+1,40%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.867,20
|
1.867,20
|
+32,60
|
+1,78%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.070,00
|
8.070,00
|
+40,00
|
+0,50%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,51
|
20,51
|
+0,34
|
+1,69%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
89,60
|
89,60
|
+0,40
|
+0,45%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
964,88
|
964,88
|
+16,40
|
+1,73%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.383,98
|
1.383,98
|
-11,09
|
-0,79%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
403,05
|
403,05
|
-0,85
|
-0,21%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.867,00
|
8.867,00
|
+14,00
|
+0,16%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.313,00
|
2.313,00
|
-15,00
|
-0,64%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.937,00
|
2.937,00
|
-37,00
|
-1,24%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
22.912,00
|
22.912,00
|
-439,00
|
-1,88%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
617,25
|
617,25
|
+5,75
|
+0,94%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
679,25
|
679,25
|
+13,50
|
+2,03%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
346,75
|
346,75
|
-1,75
|
-0,50%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,35
|
16,35
|
+0,03
|
+0,18%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.507,00
|
1.507,00
|
-3,75
|
-0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
485,90
|
485,90
|
-1,00
|
-0,21%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
56,61
|
56,61
|
-0,45
|
-0,79%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
777,80
|
777,80
|
-14,50
|
-1,83%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.704,00
|
2.704,00
|
-28,00
|
-1,02%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
177,80
|
177,80
|
+2,75
|
+1,57%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
21,16
|
21,16
|
+0,01
|
+0,05%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
240,80
|
240,80
|
+1,95
|
+0,82%
|
Bông
|
US cent/lb
|
78,18
|
78,18
|
-4,00
|
-4,87%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
414,30
|
414,30
|
+0,30
|
+0,07%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
135,30
|
135,30
|
-1,80
|
-1,31%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|