Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh trong tuần
Giá dầu tăng trong phiên thứ Sáu, nhưng tính chung cả tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 3/2023, sau khi Nga dỡ bỏ một phần lệnh cấm xuất khẩu nhiên liệu làm gia tăng lo ngại về triển vọng nhu cầu ảm đạm do những khó khăn về kinh tế vĩ mô.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 51 US cent lên 84,58 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 48 US cent lên 82,79 USD/thùng.
Mặc dù tăng trong phiên này, song tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm 11% và dầu WTI giảm hơn 8%, do lo ngại về lãi suất tăng cao kéo dài sẽ làm chậm tăng trưởng toàn cầu và ảnh hưởng đến nhu cầu nhiên liệu, ngay cả khi nguồn cung bị suy giảm bởi Saudi Arabia và Nga tiếp tục cắt giảm nguồn cung đến cuối năm nay.
Trong khi đó, Nga tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu dầu diesel đối với nguồn cung cấp đến cảng bằng đường ống. Các công ty sẽ phải bán ít nhất 50% sản phẩm dầu diesel cho thị trường nội địa.
Theo thống kê của Bộ Lao động Mỹ, tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 9/2023 tăng 336.0000, vượt dự báo tăng 170.000 của các nhà kinh tế. Các nhà phân tích cho biết nền kinh tế Mỹ mạnh mẽ có thể thúc đẩy tâm lý lạc quan về nhu cầu dầu trong ngắn hạn, nhưng ngược lại, số liệu thống kê lại khiến đồng đô la Mỹ tăng giá khiến thị trường gia tăng đặt cược vào một đợt tăng lãi suất khác của Fed trong năm 2023. Đồng USD tăng mạnh thường tác động tiêu cực đến nhu cầu dầu, khiến dầu trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Nhà phân tích Bjarne Schieldrop của SEB cho biết: “Lo ngại về sức khỏe của nền kinh tế toàn cầu và do đó nhu cầu dầu trong tương lai là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bán tháo”.
Nhưng các báo cáo về hoạt động du lịch của Trung Quốc có sự tăng trưởng đã hỗ trợ cho giá dầu. Theo Tân Hoa Xã, lượng người dân đi du lịch vào dịp trung thu và Quốc khánh của nước này đã tăng 71,3% so theo năm và 4,1% so với năm 2019 lên 826 triệu lượt khác.
Về dấu hiệu nguồn cung tương lai của Mỹ, số giàn khoan dầu của Mỹ đã giảm 5 giàn xuống 497 trong tuần vừa qua, con số thấp nhất kể từ tháng 2 năm 2022, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết hôm thứ Sáu.
Kim loại quý: Giá vàng giảm trong tuần
Giá vàng tăng trong phiên cuối tuần sau chuỗi giảm 9 phiên liên tiếp, song số liệu việc làm của Mỹ tăng mạnh làm dấy lên mối lo ngại về 1 đợt tăng lãi suất khác của Mỹ và khiến vàng thỏi có tuần giảm thứ 2 liên tiếp.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,6% lên 1.831,09 USD/ounce, song tính chung cả tuần giảm 0,9%, là tuần giảm thứ 2 liên tiếp. Giá vàng kỳ hạn tháng 12/2023 phiên này tăng 0,7% lên 1.845,2 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 3,1% lên 21,54 USD một ounce, bạch kim tăng 2,6% lên 876,73 USD và palladium tăng 1,8% lên 1.161,72 USD. Tất cả đều giảm trong tuần.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tuần qua tăng, làm giảm sức hấp dẫn của vàng.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết giá vàng tăng trở lại bất chấp số liệu việc làm tốt cho thấy áp lực bán đã cạn kiệt và các vị thế bán đã được lấp đầy.
Mặc dù tăng vào cuối phiên thứ Sáu, trong lúc đầu phiên giá giảm 0,5% sau khi báo cáo của Bộ Lao động Mỹ cho thấy bảng lương phi nông nghiệp tăng 336.000 việc làm trong tháng 9 so với tháng trước, vượt kỳ vọng là tăng thêm 170.000 trong cuộc thăm dò ý kiến của Reuters đối với các nhà kinh tế.
Theo công cụ CME Fedwatch, các nhà giao dịch dự đoán khoảng 29% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất lần nữa trong năm nay. Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi.
Ole Hansen, người đứng đầu mảng chiến lược hàng hóa của Ngân hàng Saxo, trong một thông báo đã viết rằng với sự phục hồi gần đây của lãi suất trái phiếu và đồng đô la, rất khó để tạo ra một kịch bản tăng giá cho vàng.
Tuy nhiên, “chúng tôi vẫn duy trì quan điểm tăng giá một cách kiên nhẫn đối với vàng với thời điểm thúc đẩy xu hướng tăng mới phụ thuộc rất nhiều vào dữ liệu kinh tế của Mỹ khi chúng tôi chờ đợi FOMC (Ủy ban thị trường mở liên bang) chuyển trọng tâm từ tăng lãi suất sang cắt giảm lãi suất”, ông Hansen nói.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm trong tuần
Giá đồng trên sàn London tăng vượt 8.000 USD/tấn trong phiên cuối tuần do đồng USD suy yếu, với đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 2% lên 8.057,5 USD/tấn. Song tính chung cả tuần giá giảm 2,6%.
Giá nhôm phiên này tăng 0,6% lên 2.246 USD/tấn, kẽm tăng 1,7% lên 2.517,5 USD, chì tăng 0,7% lên 2.150 USD, thiếc tăng 1,9% lên 24.605 USD và niken tăng 0,6% lên 18.595 USD.
Thị trường tiêu dùng kim loại hàng đầu thế giới - Trung Quốc - sẽ mở cửa trở lại vào thứ Hai sau kỳ nghỉ lễ kéo dài một tuần, trong khi người tiêu dùng, nhà sản xuất, thương nhân và nhà môi giới kim loại sẽ tập trung tại London cho Tuần lễ LME vào tuần tới.
Được sử dụng trong điện và xây dựng, đồng đã bị ảnh hưởng vào năm 2023 do tăng trưởng nhu cầu yếu hơn dự kiến ở Trung Quốc và lãi suất toàn cầu cao, một mối lo ngại đối với hoạt động xây dựng bên ngoài Trung Quốc.
Dữ liệu công bố hôm thứ Sáu cho thấy tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 9/2023 tăng, cho thấy thị trường lao động vẫn đủ mạnh để Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng lãi suất trong năm nay.
Tồn trữ đồng tại các kho của sàn London đạt 170.175 tấn, mức cao nhất kể từ tháng 5/2022.
Nhu cầu thực tế gần đây về đồng và nhôm ở Trung Quốc khá cao do lĩnh vực thiết bị gia dụng, xe điện, năng lượng mặt trời và gió và bất chấp cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản của nước này.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết: “Chúng tôi tin rằng thị trường xây dựng vẫn rất kiên cường và bối cảnh ở Trung Quốc không thay đổi”.
Nhà phân tích Natalie Scott-Gray của StoneX cho biết, vào cuối năm 2023, đồng có thể được hưởng lợi từ nhu cầu theo mùa ở Trung Quốc tăng lên, được hỗ trợ thêm bởi kỳ vọng về việc tăng tốc chi tiêu tài chính.
Nông sản: Giá đồng loạt tăng trong tuần
Giá nông sản biến động trong phiên cuối tuần, nhưng tính chung cả tuần đồng loạt vững đến tăng.
Giá đậu tương và ngô giảm trong phiên thứ Sáu do hoạt động bán ra chốt lời sau khi giá tăng mạnh phiên trước đó và dự báo thời tiết thuận lợi cho vụ thu hoạch. Giá lúa mì cũng giảm do giảm bớt lo ngại về việc vận chuyển ngũ cốc qua Biển Đen.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 1,2% xuống 12,66 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 1,1% xuống 4,92 USD/bushel, sau khi đạt 4,99 USD/bushel – cao nhất hơn 1 tháng; lúa mì đỏ, mềm vụ đông kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 10 US cent xuống 5,68-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE tăng 0,58 US cent tương đương 2,2% lên 26,74 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn London tăng 11,9 USD tương đương 1,7% lên 709,2 USD/tấn.
Đường đang trở lại gần mức đỉnh 12 năm gần đây do nguồn cung trên toàn cầu thắt chặt, bất chấp đồng tiền Brazil yếu thường khiến các nhà máy phải bán ra, trong khi lo ngại về tăng trưởng kinh tế vĩ mô hạn chế đà tăng.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE chạm mức thấp nhất 9 tháng, chịu áp lực giảm bởi đồng real Brazil suy yếu, lo ngại về nhu cầu trong bối cảnh thời tiết ôn hòa tại Brazil.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn ICE tăng 0,65 US cent tương đương 0,4% lên 1,4605 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ đầu tháng 1/2023 (1,4445 USD/lb) lúc đầu phiên giao dịch. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn London giảm 0,8% xuống 2.359 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 6 tháng (2.323 USD/tấn) trong đầu phiên giao dịch.
Các đại lý cho biết dự báo tuần tới Brazil sẽ giảm mưa, nhưng vẫn còn mưa và một đợt hoa mới dự kiến sẽ xuất hiện.
Trong khi đó, Rabobank cho biết thị trường cà phê ngày càng lo lắng về nhu cầu sau khi nhập khẩu cà phê xanh của Mỹ giảm 17,5% trong tháng 7, trong khi nhập khẩu của EU và Anh giảm 10,7%.
Cũng gây áp lực lên cà phê, đồng đang giao dịch ở mức thấp nhất trong 6 tháng so với đồng đô la Mỹ, thúc đẩy các nhà xuất khẩu Brazil bán ra.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng do giá dầu tăng, song xu hướng kinh tế suy giảm và số liệu tiền lương suy yếu đã hạn chế đà tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn Osaka tăng 1,3 JPY tương đương 0,6% lên 231 JPY (1,55 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Singapore giảm 0,1% xuống 138,4 US cent/kg.
Giá cao su tự nhiên thường diễn biến theo giá dầu vì cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp - được sản xuất từ dầu thô. Giá dầu trong tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 3 do đợt bán tháo trên thị trường trái phiếu Mỹ làm dấy lên lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu và lo ngại về nhu cầu nhiên liệu giảm mạnh.
Số liệu của chính phủ Nhật Bản cho biết, tiền lương thực tế của nước này trong tháng 8/2023 giảm tháng thứ 17 liên tiếp, do giá cả tăng liên tục vượt xa mức lương.
Sản lượng cao su của Bờ Biển Ngà sẽ đạt mức kỷ lục 1,5 triệu tấn trong năm nay, tăng từ mức 1,3 triệu tấn vào năm 2022.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá 29/9

Giá 6/10

6/10 so với 5/10

6/10 so với 5/10 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

90,79

87,01

+4,22

+5,10%

Dầu Brent

USD/thùng

92,20

88,79

+4,21

+4,98%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

86.800,00

80.300,00

-1.590,00

-1,94%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,93

3,38

+0,04

+1,14%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

239,95

227,33

+8,11

+3,70%

Dầu đốt

US cent/gallon

330,06

301,71

+11,63

+4,01%

Dầu khí

USD/tấn

1.001,50

903,25

+35,00

+4,03%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

82.000,00

77.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.859,40

1.864,10

+18,90

+1,02%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.880,00

8.862,00

+152,00

+1,75%

Bạc New York

USD/ounce

22,06

21,95

+0,22

+1,02%

Bạc TOCOM

JPY/g

107,00

106,50

+4,90

+4,82%

Bạch kim

USD/ounce

911,69

882,25

+0,69

+0,08%

Palađi

USD/ounce

1.246,55

1.152,44

-10,34

-0,89%

Đồng New York

US cent/lb

373,30

365,35

+2,60

+0,72%

Đồng LME

USD/tấn

8.270,50

8.046,00

+147,00

+1,86%

Nhôm LME

USD/tấn

2.347,00

2.239,50

+7,50

+0,34%

Kẽm LME

USD/tấn

2.649,50

2.509,00

+32,50

+1,31%

Thiếc LME

USD/tấn

23.944,00

24.644,00

+505,00

+2,09%

Ngô

US cent/bushel

478,75

495,00

+3,00

+0,61%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

549,00

575,75

+7,50

+1,32%

Lúa mạch

US cent/bushel

427,00

427,50

+3,75

+0,88%

Gạo thô

USD/cwt

15,89

15,92

-0,12

-0,78%

Đậu tương

US cent/bushel

1.267,50

1.273,00

+7,00

+0,55%

Khô đậu tương

USD/tấn

380,30

373,40

+1,30

+0,35%

Dầu đậu tương

US cent/lb

55,75

56,07

+0,72

+1,30%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

707,00

717,50

-1,80

-0,25%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.418,00

3.453,00

+53,00

+1,56%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

146,15

146,05

+0,65

+0,45%

Đường thô

US cent/lb

26,48

26,74

+0,58

+2,22%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

349,75

377,20

+1,25

+0,33%

Bông

US cent/lb

87,57

88,32

+1,18

+1,35%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

141,70

142,50

+2,70

+1,93%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)