Năng lượng: Giá dầu Brent và dầu West Texas Middl (WTI) của Mỹ cùng giảm bởi lo ngại về sự gián đoạn nguồn cung do Bão Berylfaded gây ra.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô Brent giảm 36 cent, tương đương 0,42%, xuống 86,24 USD/thùng; dầu thô WTI ổn định ở mức 82,81 USD/thùng, giảm 57 cent, hay 0,68%.
Trước đó, vào thứ Hai, dầu WTI đã tăng 1 USD lên 84,38 USD/thùng do lo ngại bão Beryl có thể có tác động rộng hơn đến các khu vực sản xuất dầu ngoài khơi ở phía bắc Vịnh Mexico do Mỹ quản lý khi nhu cầu về nhiên liệu động cơ của Mỹ ngày càng tăng.
Cả hai loại dầu đều tăng khoảng 2% trong phiên trước.
Nhưng khi các dự báo mới xuất hiện vào thứ Hai, các nhà giao dịch đã bớt lo ngại hơn về vấn đề nguồn cung, Phil Flynn, nhà phân tích của Price Futures Group, cho biết. Ông nói: “Thị trường nhận ra rằng Beryl sẽ không đóng cửa bất kỳ lượng lớn hoạt động sản xuất dầu ngoài khơi nào”. “Chúng tôi có thể thấy một số cơ sở đóng cửa, nhưng sẽ chỉ có ảnh hưởng tối thiểu.”
Bão Beryl là cơn bão cấp 5 nguy hiểm xé toạc vùng biển Caribe. Theo Trung tâm Bão Quốc gia Mỹ, dự kiến nó sẽ suy yếu thành bão nhiệt đới John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC, cho biết: “Chúng tôi đã né được ảnh hưởng của cơn bão Beryl”. “Tuy nhiên, chắc chắn mọi người đều hiểu rằng bất kỳ cơn bão nào phát triển ở vùng Vịnh đều sẽ là một cơn bão lớn.”
Nhu cầu xăng dầu của Mỹ dự kiến sẽ đạt đỉnh trong tuần này do hoạt động du lịch trong dịp nghỉ Lễ Độc lập vào thứ Năm. Hiệp hội Ô tô Mỹ đã dự báo rằng việc đi lại trong kỳ nghỉ lễ sẽ cao hơn 5,2% so với năm 2023, trong đó việc đi lại bằng ô tô tăng 4,8%.
Kim loại quý: Giá vàng giảm nhẹ do lợi suất trái phiếu kho bạc ổn định ở mức cao, trong khi các nhà đầu tư phân tích phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell và chờ đợi dữ liệu việc làm của Mỹ sẽ ra mắt vào cuối tuần này để có thêm tín hiệu về việc cắt giảm lãi suất của Mỹ.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 2.324,88 USD/ounce; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8 giảm 0,2% xuống 2.333,40 USD.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đạt mức cao nhất trong một tháng vào thứ Hai và duy trì ở mức cao vào thứ Ba, khiến vàng thỏi trở nên kém hấp dẫn hơn.
Phillip Streible, chiến lược gia trưởng thị trường tại Blue Line Futures, cho biết: “Thị trường vẫn rất nhạy cảm với bất kỳ cuộc thảo luận nào về lãi suất hoặc bất kỳ điều gì liên quan đến chính sách của Fed. Vì vậy, tôi nghĩ các nhà giao dịch vẫn ở trạng thái chờ xem”.
Ông Powell cho biết, ngân hàng trung ương Mỹ vẫn cần thêm dữ liệu trước khi cắt giảm lãi suất để đảm bảo chỉ số lạm phát gần đây chậm lại mang lại bức tranh chân thực về những gì đang xảy ra với áp lực giá cơ bản.
Dữ liệu hôm thứ Ba cho thấy cơ hội việc làm ở Mỹ đã tăng lên 8,14 triệu trong tháng Năm.
Trọng tâm chú ý của thị trường bây giờ chuyển sang bảng lương phi nông nghiệp vào thứ Sáu, điều này sẽ rất quan trọng trong việc đánh giá liệu thị trường lao động Mỹ có còn kiên cường trong bối cảnh lãi suất cao nhất hàng thập kỷ hay không.
Giá vàng đã giảm 5% so với mức cao kỷ lục 2.449,89 USD/ounce chạm vào ngày 20 tháng 5, một đợt phục hồi do nhu cầu trú ẩn an toàn do bất ổn địa chính trị và kinh tế cũng như việc ngân hàng trung ương liên tục mua vàng, một loại nhu cầu quan trọng.
Một thương nhân cho biết: “Nhu cầu vàng vật chất ở các thị trường lớn như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn yếu nhưng có dấu hiệu phục hồi do người tiêu dùng muốn bảo vệ tài sản của mình trước các yếu tố khác như lạm phát trong nước vẫn ở mức cao”.
Về những kim loại cơ bản khác, giá bạc giao ngay giảm 0,2% xuống 29,39 USD/ounce; bạch kim tăng 1,6% lên 993,36 USD/ounce và palladium tăng hơn 4% lên 1.010,50 USD với trọng tâm là triển vọng cải thiện doanh số bán xe hybrid so với tốc độ tăng trưởng chậm hơn của thị trường xe điện không chứa palladium.
Kim loại công nghiệp: Hoạt động mua của quỹ đã giúp đồng tăng cao vào thứ Ba, nhưng lo ngại về triển vọng nhu cầu ở nước tiêu thụ hàng đầu thế giới - Trung Quốc - và xu hướng tăng hàng tồn kho tại các kho đăng ký với Sàn giao dịch kim loại London (LME) có thể sẽ hạn chế giá tăng.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 thán trên sàn LME tăng 0,5% ở mức 9.678 USD/tấn.
Một nhà môi giới kim loại cho biết: “Thị trường đang biến động, nỗ lực tìm hướng đi thực sự - và dữ liệu gần đây của Trung Quốc hầu như không đảm bảo với bất kỳ ai về triển vọng nhu cầu”.
Một cuộc khảo sát tư nhân cho thấy hoạt động của các nhà sản xuất nhỏ của Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất kể từ năm 2021 nhờ các đơn đặt hàng ở nước ngoài. Tuy nhiên, sự lạc quan đã bị giảm bớt bởi một cuộc khảo sát rộng hơn khác cho thấy nhu cầu trong nước yếu.
Tồn trữ đồng trong các kho đăng ký với sàn LME đã tăng gần 80% kể từ giữa tháng 5, đạt 184.475 tấn, mức cao nhất kể từ tháng 12. Các thương nhân cho biết phần lớn kim loại được chuyển đến các cơ sở lưu trữ ở châu Á đều đến từ Trung Quốc.
Đồng bắt đầu giảm giá từ mức đỉnh cao trên 11.100 USD/tấn đạt tới vào tháng 5 khi tồn kho của sàn LME bắt đầu tăng. Tuy nhiên, về lâu dài, nhu cầu tăng nhanh từ quá trình chuyển đổi năng lượng có thể tạo ra tình trạng thiếu hụt.
Guy Wolf, Giám đốc Phân tích Thị trường Toàn cầu của Marex cho biết: “Dự kiến nhu cầu sẽ tăng đáng kể trong 5 năm tới”. "Triển vọng dài hạn đối với kim loại cơ bản là rất tích cực. Thị trường đã nhận ra rằng thứ từng được gọi là 'kim loại công nghiệp' giờ đây là cốt lõi của 'kim loại chuyển tiếp' trong quá trình khử cacbon."
Về mặt kỹ thuật, đồng phải đối mặt với ngưỡng kháng cự khoảng 9.750 USD, là mức trung bình động 21 ngày.
Về các kim loại cơ bản kahcs, giá nhôm trên sàn LME tăng 0,3% lên 2.522 USD/tấn, kẽm C giảm 0,3% xuống 2.919 USD, chì giảm 0,8% xuống 2.200 USD, thiếc giảm 0,2% xuống 32.830 USD và niken giảm 1,6% xuống 17.080 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc tiếp tục tăng bởi kỳ vọng Trung Quốc gia tăng các biện pháp kích thích ở nước tiêu thụ hàng đầu thế giới - Trung Quốc, trong khi giá quặng sắt tại Singapore giảm sau khi chạm mức tâm lý 110 USD/tấn.
Hợp đồng quặng sắt được giao dịch nhiều nhất – kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 1,4% lên 843 nhân dân tệ (115,94 USD)/tấn. Trước đó, trong ngày, giá có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 7 tháng 6, ở mức 846,5 nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8 trên Sàn giao dịch Singapore giảm gần 0,2% xuống 109,6 USD/tấn, sau khi chạm mức cao nhất trong ngày là 110,2 USD/tấn trước đó, cũng là mức cao nhất kể từ ngày 7/6.
Các nhà phân tích tại Huatai Futures cho biết thị trường kim loại màu đã được hưởng lợi từ một số doanh số bán hàng được cải thiện trên thị trường bất động sản nhờ một loạt các biện pháp kích thích.
Các nhà phân tích tại Chaos Ternary Futures cho biết, các nhà sản xuất thép thiếu động lực để giảm sản lượng trong thời gian ngắn và sản lượng kim loại nóng tương đối cao có nghĩa là các nhà máy cần bổ sung nguyên liệu thô.
Các nhà phân tích cho biết giá quặng sắt cũng được hỗ trợ bởi kỳ vọng kéo dài về nhiều biện pháp kích thích hơn từ hội nghị sắp tới. Hội nghị Hội nghị Trung ương 3 khóa XX của Trung Quốc sẽ được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7, tập trung vào cải cách sâu rộng và thúc đẩy hiện đại hóa Trung Quốc.

Tuy nhiên, các nhà phân tích tại CITIC Futures cảnh báo rằng đà tăng có thể không duy trì lâu, do nhu cầu thép ở hạ nguồn vẫn chưa cải thiện nhiều và số lượng nhà máy thực hiện bảo trì thiết bị đã tăng lên.

Giá thép chuẩn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng nhẹ trong phiên vừa qua. Thép cây tăng 0,4%, thép cuộn cán nóng tăng 0,2%, thép thanh tăng 0,3% và thép không gỉ tăng 0,5%.

Nông sản: Giá ngô Mỹ tiếp tục tăng do những lo ngại về tình hình mùa vụ và thời tiết ngắn hạn ở Mỹ, trong khi giá đậu tương cũng tăng do giao dịch kỹ thuật và thời tiết không thuận lợi ở một số khu vực trồng đậu tương ở miền Trung Mỹ.

Trong khi đó, hoạt động chốt lời đã khiến giá lúa mì kỳ hạn kết thúc ngày thấp hơn so với mức cao nhất một tuần của phiên trước đó.

Dữ liệu của chính phủ Mỹ hôm thứ Hai cho thấy tình trạng vụ ngô của nước này trong tuần gần nhất xấu đi trong khi tình trạng vụ mùa đậu tương giữ ổn định sau khi lũ lụt tràn ngập các khu vực ở vùng Trung Tây Tây Bắc nước Mỹ.

Nhưng một số dự đoán Vành đai ngô phía tây ở Trung Tây Mỹ có thể phải đối mặt với thời tiết khô hạn và nắng nóng cao vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8, điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình hình thành vỏ đậu tương.

Các nhà phân tích thị trường cho biết các quỹ và những người tham gia thị trường cũng đang theo dõi chặt chẽ tốc độ bán nông sản chậm chạp của nông dân Argentina.

Kết thúc phiên, hợp đồng ngô giao dịch tích cực nhất trên Sàn Thương mại Chicago (CBOT) tăng 3/4 cent lên 4,21-1/4 USD/bushel. Hợp đồng lúa mì kết thúc phiên giảm 9-1/4 cent xuống 5,81 USD/bushel, trong khi đậu tương tăng 2 US cent và kết thúc ở mức 11,13 USD/bushel.

Giá đường thô tăng gần 2% lên mức cao nhất hai tháng rưỡi trong bối cảnh thời tiết khô hạn tiếp diễn ở Brazil và sau đợt giao nhiều hợp đồng lớn vào tháng 7.

Kết thúc phiên, giá đường thô kỳ hạn tháng 10 trên sàn ICE tăng 0,38 cent, tương đương 1,9%, lên 20,61 cent/lb. Đầu phiên, giá có lúc đạt 20,78, mức cao nhất kể từ ngày 12 tháng 4. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 0,3% xuống 584,30 USD/tấn.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 2,45 cent, tương đương 1,1%, ở mức 2,273 USD/lb; cà phê Robusta tháng 9 LRCc2 tăng 0,6% ở mức 4.092 USD/tấn.

 Các đại lý lưu ý rằng lượng tồn kho trên sàn giao dịch tăng và đồng real Brazil gần đây suy yếu đang giúp kiềm chế giá, nhưng tình trạng khô hạn tiếp tục diễn ra trên khắp đất nước làm tăng mối lo ngại về sản lượng trong tương lai. Tồn kho cà phê được chứng nhận của sàn ICE đến ngày 1/7 ở mức 815.176 bao, tăng so với 780.583 bao một tháng trước đó.

Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tăng vào thứ Ba, với hợp đồng cao su giao tháng 12 trên sàn Osaka (OSE) tăng 5,6 yên, tương đương 1,71%, lên 334 yên (2,07 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) đóng cửa tăng 235 nhân dân tệ ở mức 15.145 nhân dân tệ (2.082,87 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 8 trên nền tảng SICOM của sàn Singapore Exchange tăng 1,2% lên 170,2 US cent/kg.

Hợp đồng cao su butadien giao tháng 8 – giao dịch sôi động nhất trên sàn SHFE - tăng 310 nhân dân tệ, tương đương 2,09%, lên 15.175 nhân dân tệ (2.087 USD)/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

82,95

+0,14

+0,17%

Dầu Brent

USD/thùng

86,41

+0,17

+0,20%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

257,36

+0,02

+0,01%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,46

+0,03

+1,11%

Dầu đốt

US cent/gallon

262,90

-0,07

-0,03%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.340,60

+7,20

+0,31%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.332,07

+2,61

+0,11%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,87

+0,21

+0,70%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

999,65

+0,42

+0,04%

Đồng (Comex)

US cent/lb

442,65

+0,75

+0,17%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.672,50

+42,50

+0,44%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.522,50

+7,00

+0,28%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.922,50

-6,00

-0,20%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.922,00

+22,00

+0,07%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

421,00

-0,25

-0,06%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

581,25

+0,25

+0,04%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

317,00

+0,25

+0,08%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,07

+0,01

+0,07%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.113,75

+0,75

+0,07%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

328,80

+0,50

+0,15%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

46,52

-0,20

-0,43%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

644,60

-6,50

-1,00%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.788,00

+495,00

+6,79%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

227,30

+2,45

+1,09%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

20,61

+0,38

+1,88%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

438,45

+17,20

+4,08%

Bông (ICE)

US cent/lb

72,70

-0,40

-0,55%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

170,50

-1,00

-0,58%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)