Trong số 33 nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Australia thì nhóm hàng điện thoại và linh kiện đứng đầu về kim ngạch với 374,98 triệu USD, chiếm 23,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang Australia, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm 2016; nhóm hàng máy vi tính và linh kiện đứng thứ 2 về kim ngạch, đạt 174,25 triệu USD, chiếm 10,8%, tăng 34%; tiếp đến nhóm hàng dầu thô 118,9 triệu USD, chiếm 7,3%, tăng 17,6%; giày dép 108,76 triệu USD, chiếm 6,7%, tăng 21%;
Trong 6 tháng đầu năm nay, hầu như các loại hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Australia đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó phương tiện vận tải và phụ tùng đạt mức tăng trưởng cao nhất trên 200%, đạt 71,97 triệu USD; xuất khẩu sắt thép cũng tăng mạnh trên 181%, đạt 29,65 triệu USD; ngoài ra xuất khẩu cũng tăng trên 50% kim ngạch ở một số nhóm hàng như: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng (+50,5%); sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ (+54,6%); đồ chơi, dụng cụ thể thao (+61%); sản phẩm hoá chất (+60%); sản phẩm mây tre, cói thảm (+57,8%).
Tuy nhiên, xuất khẩu hạt tiêu; clinker, xi măng và dây điện cáp điện sang Australia lại sụt giảm mạnh, với mức giảm lần lượt 46%, 30% và 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thị trường Australia luôn được đánh giá là thị trường nhập khẩu tiềm năng đối với các nhà xuất khẩu. Đây cũng là một thị trường tương đối mở cho các nhà cung cấp nước ngoài, với chính sách không áp dụng hạn ngạch nhập khẩu và hầu hết thuế nhập khẩu là 5% và 0% cho các nước kém phát triển. Theo Hiệp định AANZFTA thì khoảng 96% thuế quan của Australia được loại bỏ vào năm 2010, phần còn lại sẽ được thực hiện vào năm 2020 đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Ông Nguyễn Phúc Nam, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường Châu Á-Thái Bình Dương nhận định, Australia là thị trường có vai trò ngày càng quan trọng trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Đây là thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam cho các mặt hàng như nông sản, thủy sản, cà phê, hạt điều, máy vi tính, điện thoại, sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, vật liệu xây dựng... Theo Hiệp định, các nước thống nhất cắt giảm từ 90% - 100% tổng số các dòng thuế theo lộ trình từ năm 2010 đến năm 2020. Tận dụng ưu đãi trong Hiệp định thương mại tự do là sử dụng tối đa những điều kiện và quyền lợi mà nước tham gia được hưởng trong quá trình thực thi Hiệp định.
Việc nghiên cứu phổ biến thông tin về tận dụng ưu đãi trong Hiệp định AANZFTA sẽ giúp cho Việt Nam tận dụng tốt hơn những ưu đãi trong Hiệp định này nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Australia.
Tuy nhiên, theo bà Phan Thị Diệu Linh, chuyên gia Vụ Thị trường Châu Á-Thái Bình Dương, thị trường Australia là thị trường nhiều thách thức cho các nhà cung cấp nước ngoài do một số đặc điểm khác biệt trong phương thức mua hàng của doanh nghiệp nhập khẩu Australia. Thị trường Australia cũng là thị trường khó tính với các tiêu chuẩn đặt ra với sản phẩm nhập khẩu tương đối cao. Người tiêu dùng Australia rất hiểu biết và đánh giá cao hàng hóa sản xuất tại nội địa.
Tuy nhiên, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Trưởng phòng Quy tắc xuất xứ - Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) chia sẻ, tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia sẽ còn rất lớn vì hiện nay, giá trị xuất khẩu từ Việt Nam sang Australia vẫn còn rất khiêm tốn. Hiệp định AANZFTA đang được triển khai và trong bối cảnh gia tăng hội nhập khu vực và toàn cầu sẽ giúp quan hệ thương mại Việt – Australia phát triển mạnh hơn nữa. Vì vậy, doanh nghiệp cần đặt mình vào các tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và cạnh tranh được với hàng hóa đến từ nhiều quốc gia khác.
Số liệu thống kê sơ bộ về xuất khẩu sang Australia 6 tháng đầu năm 2017
ĐVT: USD
Mặt hàng
|
6T/2017
|
6T/2016
|
+/-(%) 6T/2017 so với cùng kỳ
|
Tổng kim ngạch
|
1.617.791.586
|
1.306.259.976
|
+23,85
|
Điện thoại các loại và linh kiện
|
374.984.326
|
305.219.852
|
+22,86
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
174.248.949
|
129.901.827
|
+34,14
|
Dầu thô
|
118.898.154
|
101.105.977
|
+17,60
|
Giày dép
|
108.764.460
|
89.893.459
|
+20,99
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác
|
86.028.095
|
57.148.941
|
+50,53
|
Hàng dệt may
|
81.894.440
|
79.519.804
|
+2,99
|
Hàng thuỷ sản
|
78.306.892
|
78.411.131
|
-0,13
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
73.525.478
|
73.251.017
|
+0,37
|
Phương tiện vận tải và phụ tùng
|
71.968.291
|
23.941.493
|
+200,60
|
Hạt điều
|
59.651.190
|
50.778.572
|
+17,47
|
Sắt thép
|
29.648.515
|
10.541.036
|
+181,27
|
Sản phẩm từ sắt thép
|
27.802.682
|
30.590.057
|
-9,11
|
Túi xách, ví, vali, mũ ô dù
|
22.373.332
|
22.167.285
|
+0,93
|
Kim loại thường khác và sản phẩm
|
22.176.901
|
27.569.347
|
-19,56
|
Sản phẩm từ chất dẻo
|
21.877.474
|
19.182.650
|
+14,05
|
Cà phê
|
17.264.571
|
15.056.431
|
+14,67
|
Giấy và sản phẩm từ giấy
|
16.257.536
|
11.420.600
|
+42,35
|
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ
|
16.013.665
|
10.357.706
|
+54,61
|
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận
|
13.507.466
|
8.373.301
|
+61,32
|
Hàng rau quả
|
11.247.093
|
10.354.735
|
+8,62
|
Sản phẩm hoá chất
|
10.766.012
|
6.727.886
|
+60,02
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
7.070.069
|
4.963.820
|
+42,43
|
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
7.007.904
|
7.339.656
|
-4,52
|
Sản phẩm từ cao su
|
5.768.582
|
4.720.950
|
+22,19
|
Clinker và xi măng
|
5.685.767
|
8.087.320
|
-29,70
|
Đá quí, kim loại quí và sản phẩm
|
5.609.668
|
5.696.736
|
-1,53
|
Hạt tiêu
|
5.245.690
|
9.721.771
|
-46,04
|
Sản phẩm gốm sứ
|
5.081.728
|
4.706.076
|
+7,98
|
Sản phẩm mây tre, cói thảm
|
4.981.326
|
3.156.733
|
+57,80
|
Gạo
|
2.905.545
|
2.607.951
|
+11,41
|
Chất dẻo nguyên liệu
|
2.509.132
|
1.740.259
|
+44,18
|
Dây điện và cáp điện
|
1.829.891
|
2.293.501
|
-20,21
|
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
447.084
|
359.539
|
+24,35
|
(tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan)
Nguồn: VITIC/dangcongsan.vn