Hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc ngày càng đa dạng và luôn đạt mức tăng trưởng cao. Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong tháng 8/2017 đạt 3,3 tỷ USD (tăng 19,7% so với tháng 7/2017); nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này 8 tháng đầu năm 2017 lên trên 18,73 tỷ USD, tăng 45% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 14% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước.
Có 6 nhóm hàng xuất khẩu sang Trung Quốc đạt trên 1 tỷ USD; trong đó nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đứng đầu về kim ngạch, chiếm 21,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này, đạt 4,04 tỷ USD, tăng 100% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhóm hàng rau quả chiếm 9,5% trong tổng kim ngạch, đạt 1,79 tỷ USD, tăng 62% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 1,35 tỷ USD, chiếm 7,2%, tăng 137%; xơ, sợi dệt đạt 1,3 tỷ USD, chiếm 6,9%, tăng 26%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1,07 tỷ USD, chiếm 5,7%, tăng 58,5%; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện đạt 1,04 tỷ USD, chiếm 5,5%, tăng 42% so với cùng kỳ.
Đáng chú ý nhất trong số các nhóm hàng xuất sang Trung Quốc trong 8 tháng đầu năm 2017 là nhóm hàng giấy và các sản phẩm từ giấy có mức tăng rất mạnh 811% so với cùng kỳ, đạt 22,25 triệu USD. Ngoài ra, có rất nhiều nhóm hàng tăng trưởng mạnh trên 100% về kim ngạch như: sắt thép tăng 116%; dây điện và dây cáp điện tăng 136%; điện thoại tăng 137%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 100%; Clanhke và xi măng tăng 155%.
Ngược lại, xuất khẩu sụt giảm mạnh ở các nhóm hàng như: Cà phê giảm 24%, chè giảm 36% và dầu thô giảm 23% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu sang Trung Quốc 8 tháng đầu năm 2017. ĐVT: USD
Mặt hàng
|
8T/2017
|
8T/2016
|
% so sánh
|
Tổng kim ngạch XK
|
18.731.564.565
|
12.909.811.276
|
+45,10
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
4.038.259.901
|
2.018.496.212
|
+100,06
|
Hàng rau quả
|
1.787.206.566
|
1.099.739.160
|
+62,51
|
Điện thoại các loại và linh kiện
|
1.350.938.060
|
569.636.377
|
+137,16
|
Xơ, sợi dệt các loại
|
1.295.898.553
|
1.028.939.291
|
+25,95
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác
|
1.067.039.398
|
673.230.423
|
+58,50
|
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
1.037.424.215
|
728.972.071
|
+42,31
|
Cao su
|
867.029.339
|
503.413.341
|
+72,23
|
Giày dép các loại
|
744.437.697
|
581.877.013
|
+27,94
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
705.934.660
|
637.140.089
|
+10,80
|
Gạo
|
700.732.767
|
538.010.126
|
+30,25
|
Dầu thô
|
684.106.018
|
887.897.852
|
-22,95
|
Hàng dệt, may
|
670.513.178
|
518.020.701
|
+29,44
|
Hàng thủy sản
|
669.419.689
|
413.746.317
|
+61,79
|
Sắn và các sản phẩm từ sắn
|
555.681.296
|
592.962.894
|
-6,29
|
Dây điện và dây cáp điện
|
262.498.047
|
111.041.036
|
+136,40
|
Hạt điều
|
252.731.644
|
229.737.773
|
+10,01
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
197.742.605
|
183.068.411
|
+8,02
|
Phương tiện vận tải và phụ tùng
|
156.001.631
|
116.238.566
|
+34,21
|
Xăng dầu các loại
|
139.645.124
|
112.634.546
|
+23,98
|
Hóa chất
|
135.368.426
|
67.851.761
|
+99,51
|
Thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
133.645.711
|
144.422.012
|
-7,46
|
Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù
|
97.908.592
|
98.170.109
|
-0,27
|
Chất dẻo nguyên liệu
|
82.576.816
|
60.775.445
|
+35,87
|
Kim loại thường khác và sản phẩm
|
64.096.497
|
41.627.434
|
+53,98
|
Sản phẩm hóa chất
|
59.458.695
|
50.247.380
|
+18,33
|
Quặng và khoáng sản khác
|
56.320.337
|
49.399.981
|
+14,01
|
Cà phê
|
55.904.700
|
73.751.500
|
-24,20
|
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh
|
51.754.479
|
32.016.065
|
+61,65
|
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
47.068.151
|
48.075.279
|
-2,09
|
Sản phẩm từ cao su
|
46.663.179
|
38.172.775
|
+22,24
|
Sản phẩm từ chất dẻo
|
38.043.896
|
26.371.345
|
+44,26
|
Sản phẩm từ sắt thép
|
36.534.805
|
28.308.787
|
+29,06
|
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận
|
22.432.541
|
14.644.161
|
+53,18
|
Giấy và các sản phẩm từ giấy
|
22.250.507
|
2.442.131
|
+811,11
|
Chè
|
9.026.170
|
14.091.287
|
-35,95
|
Vải mành, vải kỹ thuật khác
|
8.688.174
|
7.233.541
|
+20,11
|
Sắt thép các loại
|
8.533.009
|
3.947.387
|
+116,17
|
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ
|
8.268.666
|
8.647.498
|
-4,38
|
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm
|
5.195.371
|
4.161.665
|
+24,84
|
Sản phẩm gốm, sứ
|
4.444.185
|
2.870.558
|
+54,82
|
Clanhke và xi măng
|
2.173.640
|
852.467
|
+154,98
|
Than đá
|
937.122
|
|
*
|
Trung Quốc siết chặt nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Trung Quốc đang là thị trường nhập khẩu nông sản chính của Việt Nam. Gần đây, nước này siết chặt điều kiện NK, trong đó có kiểm dịch, khiến nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam gặp khó.
Bà Nguyễn Thị Hà - Chi cục trưởng Chi cục Kiểm dịch thực vật vùng 7 (Cục Bảo vệ thực vật - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) - cho hay, trước đây, một số loại trái cây mặc dù không nằm trong danh mục được xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng phía Trung Quốc vẫn tạo điều kiện cho XK theo đường tiểu ngạch. Hiện nay, XK tiểu ngạch bị siết chặt, do đó, phải thực hiện phân tích nguy cơ dịch hại, gửi kết quả, nếu chấp nhận mới được XK.
Đơn cử như quả na Lạng Sơn, trước năm 2016 vẫn XK sang Trung Quốc theo hình thức biên mậu, nhưng từ năm 2016, sản phẩm này không áp dụng hình thức tiểu ngạch. Hiện nay, Cục Bảo vệ thực vật đã làm thủ tục phân tích nguy cơ dịch hại và gửi các thông tin về cơ sở sản xuất, vùng trồng… sang Trung Quốc với hy vọng, na Lạng Sơn sớm có thể XK theo đường chính ngạch.
Theo ông Đoàn Tuấn Anh - Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan Tân Thanh, phía Trung Quốc đang tăng cường khâu kiểm dịch, xe hàng nào họ cũng lấy mẫu để làm thủ tục kiểm dịch dẫn đến đến việc thông quan hàng mất nhiều thời gian.
Theo các chuyên gia kinh tế, thị trường Trung Quốc đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi nông sản Việt Nam muốn XK sang thị trường này buộc phải thay đổi, trong đó quan trọng nhất là nâng cao chất lượng sản phẩm.
Để gỡ khó cho các doanh nghiệp (DN) XK nông sản, thời gian qua, cơ quan kiểm dịch thực vật cửa khẩu đã nỗ lực kiểm soát để nông sản Việt Nam XK sang Trung Quốc, đáp ứng yêu cầu kiểm tra an toàn thực phẩm từ nước bạn.
Theo ông Đoàn Tuấn Anh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần quy hoạch vùng trồng trái cây, đầu tư công nghệ chế biến, công nghệ sinh học bảo quản… tránh thiệt hại kinh tế, gây tổn thất cho DN. Các cơ quan chức năng đàm phán với Trung Quốc trong việc thừa nhận kết quả kiểm tra của nhau để giảm thủ tục hành chính, thời gian thông quan, tạo điều kiện cho nông sản XK.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang rà soát các thủ tục, tiếp tục đề nghị Trung Quốc giải quyết mở cửa NK một số mặt hàng như na, măng cụt…, tạo thuận lợi cho các DN trao đổi thương mại chính ngạch. Bên cạnh đó, Bộ đang nghiên cứu, xin chủ trương xây dựng Đề án nâng cao năng lực chế biến hàng nông sản để đảm bảo yêu cầu không chỉ ở thị trường trong nước mà còn tại các nước NK.
Việc đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn cho nông sản XK cũng là giải pháp hạn chế rủi ro, tránh tình trạng hàng bị trả lại.