Thị trường tiêu thụ nhuyễn thể thuận lợi
Với bình quân 59 kg/năm, Bồ Đào Nha là một trong những nước có mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người cao nhất trong khối EU và thế giới. Thủy sản chiếm khoảng 17% chi phí tiêu dùng dành cho thực phẩm của người dân nước này. Đặc biệt là các mặt hàng nhuyễn thể chân đầu và nhuyễn thể hai mảnh vỏ (HMV). Trong khối EU hiện nay, Bồ Đào Nha đang là thị trường NK nhuyễn thể hai mảnh vỏ (HMV) lớn nhất. Đặc biệt ở khu vực miền Bắc và miền Trung với thời gian cao điểm từ tháng 5-9, do có nhiều khách du lịch
Các loài bạch tuộc, mực, vẹm, sò, điệp, nghêu và bào ngư được sử dụng nhiều trong các món ăn truyền thống của Bồ Đào Nha. Trong đó, bạch tuộc là một trong những món ăn được ưa chuộng nhất, với với các món như salat hải sản, bạch tuộc hầm, mỳ ống trộn bạch tuộc. Bồ Đào Nha tiêu thụ khoảng 10.000 tấn bạch tuộc đông lạnh mỗi năm.
Do nguồn cung nội địa thấp, nên nước này phụ thuộc chủ yếu vào NK để đáp ứng nhu cầu. Nhuyễn thể là một trong những mặt hàng có giá trị NK lớn của Bồ Đào Nha, năm 2013, NK 209 triệu USD tương đương 59.000 tấn, chiếm thị phần lớn nhất trong tổng NK của EU. Trong những năm 2009-2013, NK nhuyễn thể của Bồ Đào Nha tăng trung bình khoảng 11%/năm. NK nhuyễn thể HMV lại tăng trung bình gấp 3 lần trong 5 năm từ 2009-2013. Riêng năm 2013, bạch tuộc được Bồ Đào Nha NK nhiều nhất, chiếm hơn 35% tổng giá trị NK nhuyễn thể, tiếp đến là mực, vẹm, sò, điệp, nghêu, bào ngư và hàu...
Trong thời kỳ khủng hoảng, mặc dù chi tiêu bị ảnh hưởng nhiều, nhưng tiêu thụ nhuyễn thể vẫn tiếp tục tăng. Thậm chí, NK từ các nước đang phát triển còn tăng do nhu cầu đối với các sản phẩm đông lạnh giá rẻ tăng. Điều này cho thấy thị trường Bồ Đào Nha vẫn mang đến nhiều cơ hội tốt cho thủy sản NK dù điều kiện kinh tế không khả quan.
5 năm gần đây, Việt Nam luôn nằm trong nhóm các nước dẫn đầu XK nhuyễn thể đông lạnh sang Bồ Đào Nha. Năm 2013, Việt Nam là nhà cung cấp nhuyễn thể đông lạnh lớn thứ 4 cho Bồ Đào Nha, sau Tây Ban Nha, Ấn Độ và Marốc.
NK nhuyễn thể đông lạnh của Bồ Đòa Nha, 2009-2013, triệu USD
|
|
Xuất xứ
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
1
|
Tây Ban Nha
|
114,890
|
133,702
|
148,847
|
106,916
|
113,411
|
2
|
Ấn Độ
|
16,288
|
20,475
|
28,197
|
24,697
|
19,934
|
3
|
Marốc
|
5,819
|
14,383
|
14,773
|
10,500
|
18,587
|
4
|
Việt Nam
|
11,768
|
12,481
|
15,737
|
18,523
|
16,452
|
5
|
Mêxicô
|
6,950
|
15,016
|
15,958
|
7,023
|
8,235
|
6
|
Trung Quốc
|
3,553
|
14,748
|
16,509
|
6,551
|
5,048
|
7
|
Pháp
|
1,601
|
3,674
|
3,791
|
4,754
|
4,336
|
8
|
Niu Di lân
|
1,748
|
1,044
|
2,603
|
2,580
|
4,223
|
9
|
Nam Phi
|
1,258
|
3,344
|
4,252
|
4,780
|
3,422
|
10
|
Tanzania
|
3,924
|
3,625
|
3,635
|
5,973
|
3,184
|
|
Khác
|
20,955
|
16,220
|
32,842
|
39,592
|
12,294
|
|
Tổng cộng
|
188,754
|
238,712
|
287,144
|
231,889
|
209,126
|
Với tiềm năng tiêu thụ dồi dào, Bồ Đào Nha tiếp tục là một lựa chọn thích hợp đối với các nhà XK nhuyễn thể của Việt Nam trong việc gia tăng giá trị XK.
XK nhuyễn thể hai mảnh vỏ Biệt Nam tăng trưởng ổn định
Riêng đối với Việt Nam, nhuyễn thể là mặt hàng có giá trị XK lớn nhất trong số các sản phẩm thủy sản xuất sang Bồ Đào Nha.
Giá trị XK mặt hàng này gia tăng liên tục trong những năm qua cho thấy các DN Việt Nam đã tận dụng được tiềm năng tiêu thụ tại thị trường này.
Năm 2008, XK nhuyễn thể sang Bồ Đào Nha đạt 8,5 triệu USD. Con số này tăng lên 12,8 triệu USD trong năm 2009, tiếp đó 13,6 triệu USD năm 2010, 15,2 triệu năm 2011 và 17,7 triệu USD năm 2012. Năm 2013, tuy giá trị XK mặt hàng này sang Bồ Đào Nha giảm nhẹ 3%, nhưng vẫn chiếm 35% tổng giá trị XK thủy sản của cả nước.
Trong cơ cấu nhuyễn thể XK sang Bồ Đào Nha, XK nhuyễn thể HMV chiếm trên 90%, với mặt hàng chủ yếu là nghêu, trong 6 năm qua, XK nghêu có tốc độ tăng trưởng ổn định với mức trung bình 20%/năm.
Tuy nhiên, XK mặt hàng này lại có dấu hiệu chững lại trong 3 tháng đầu năm 2014, giá trị XK chỉ đạt 2,6 triệu USD, giảm 11,9% so với 2,9 triệu USD của cùng kỳ năm ngoái. Đây là kết quả có thể dự đoán được trong bối cảnh XK nhuyễn thể HMV sụt giảm và nền kinh tế châu Âu vẫn chưa hoàn toàn hồi phục.
Mặt hàng nhuyễn thể chân đầu (mực, bạch tuộc) của Việt Nam chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng giá trị NK khá lớn của Bồ Đào Nha. Giai đoạn 2008-2013, tốc độ tăng trưởng XK nhuyễn thể chân đầu sang Bồ Đào Nha có nhiều biến động.
Hiện nay, khách hàng Bồ Đào Nha thường tìm đến những đơn hàng nhuyễn thể chưa qua chế biến, có giá trị thấp hơn các sản phẩm GTGT. Nhuyễn thể chân đầu xuất sang Bồ Đào Nha chủ yếu là ở dạng đông lạnh (thuộc mã HS 0304), chiếm khoảng 50% tổng giá trị XK mặt hàng này . XK các sản phẩm chế biến thuộc mã HS16 chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ.
Dự báo, trong thời gian tới, do khó khăn về nguồn nguyên liệu trong nước, XK mực, bạch tuộc của Việt Nam sang Bồ Đào Nha sẽ gặp nhiều khó khăn khó có thểcạnh tranh với các nước đối thủ. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam chỉ có thể tạo nên sự khác biệt về chất lượng sản phẩm, tạo tính cạnh tranh và tính mùa vụ thì mới có cơ hội để gia tăng XK nhuyễn thể chân đầu nói riêng và nhuyễn thể nói chung sang thị trường Bồ Đào Nha.
Đẩy mạnh tiêu thụ nhuyễn thể tại Bồ Đào Nha
Phương pháp quảng bá và xúc tiến tốt nhất cho thủy sản NK ở Bồ Đào Nha là thông qua các kênh phân phối. Các sản phẩm thủy sản thường được tiêu thụ thông qua ngành bán lẻ (88%) và ngành dịch vụ thực phẩm (12%). Tất cả các nhà bán lẻ đều có cửa hàng thủy sản và cửa hàng thực phẩm đông lạnh. Ngành bán lẻ thực phẩm của Bồ Đào Nha rất năng động và có tính cạnh tranh cao. Vì vậy, đây sẽ là kênh phân phối giúp thủy sản Việt Nam và nhuyễn thể nói riêng tiếp cận gần hơn người tiêu dùng Bồ Đào Nha.
Ngoài ra, kênh giao dịch quan trọng khác là các công ty NK thủy sản và các công ty chế biến vì họ chính là những người cung cấp sản phẩm đến các nhà phân phối, cửa hàng ăn uống và các nhà bán lẻ.
Các siêu thị, đại siêu thị và cửa hàng chiếm doanh số khoảng 78% tổng doanh thu thực phẩm ở Bồ Đào Nha, họ không trực tiếp NK nhuyễn thể nhưng đây là các khách hàng lớn, như các siêu thị lớn nhất nước: Modelo Continente, Jerónimo Martins, Carrefour và Jumbo/ Pâo de Açucar.
Nhưng nhìn chung, yếu tố then chốt để tiếp cận thị trường Bồ Đào Nha là các nhà XK Việt Nam cần đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng, mẫu mã, trọng lượng, đóng gói và dán nhãn của nhà NK phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Nguồn: Vietfish