Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do dự trữ dầu của Mỹ tăng ngoài dự kiến.
Dầu Brent giảm 53 US cent xuống 81,34 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 71 US cent xuống 71,57 USD/thùng.
Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự trữ dầu của Mỹ tăng 1,9 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 21/9, trái ngược với dự đoán được giới phân tích đưa ra là giảm 1,3 triệu thùng.
Mặc dù giảm song giá dầu Brent vẫn trên 80 USD/thùng bởi lo ngại về việc Mỹ trừng phạt Iran, bắt đầu từ 4/11/2018. Hiện một số nhà nhập khẩu dầu lớn như Ấn Độ đã giảm mua dầu của Iran. Lãnh đạo của Indian Oil Corp và Bharat Petroleum Corp cho hay, hai hãng này đã không đề nghị nhập khẩu dầu từ Iran trong tháng 11/2018, trong khi đó tập đoàn Nayara Energy cũng không có kế hoạch mua. Công ty lọc dầu Mangalore Refinery và công ty hóa dầu Petrochemicals không có đơn hàng nào trong tháng 11. Ấn Độ là nước nhập khẩu dầu mỏ lớn thứ 2 của Iran, với việc nhập trung bình 577.000 thùng dầu/ngày trong năm nay, tương đương 27% lượng dầu mỏ xuất khẩu của Tehran.Trong bối cảnh Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước châu Âu cũng cắt giảm lượng dầu nhập khẩu từ Iran về con số 0, việc mất đi những khách hàng từ Ấn Độ, dù chỉ là tạm thời, sẽ là một cú giáng mạnh đối với quốc gia Trung Đông này.
Trong kỳ họp mới nhất, OPEC khẳng định thị trường vẫn đủ dầu. Chính quyền Mỹ cũng quyết định chưa vội xuất dầu dự trữ ra để bình ổn thị trường, mà tiếp tục để các nước sản xuất dầu lớn cân đối cung cầu cho thị trường thế giới.
Commerzbank trong một thông báo có đoạn viết: "Giá dầu tăng gần đây chủ yếu do ông Trump… ông đã khiến cho thị trường lại chú ý vào vấn đề trừng phạt Iran, mặc dù thị trường đang đủ cung do OPEC và Nga tăng sản lương". Và đó cũng là lý do khiến Tổng thống Mỹ Donald Trump trong bài phát biểu tại Liên Hiệp Quốc mới đây lại kêu gọi OPEC bơm thêm dầu vào thị trường, đồng thời cáo buộc Iran đã gây ra sự hỗn loạn (hiện nay) và dọa sẽ trừng phạt mạnh tay hơn nữa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nâng lãi suất đúng như dự đoán và dự báo kinh tế sẽ tăng trưởng thêm ba năm nữa.
Vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.197,21/ounce; giao tháng 12/2018 giảm 6 USD (0,5%) xuống 1.199,10 USD/ounce.
Kết thúc cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày (25-26/9/2018), Fed quyết định tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm, lên biên độ 2-2,25%, với nhận định nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ “tận hưởng” thêm ít nhất ba năm tăng trưởng nữa. Đây là lần tăng lãi suất thứ ba của Fed trong năm nay. Phần lớn các nhà lập chính sách tại Fed hiện ủng hộ tăng lãi suất vào tháng 12, lần tăng thứ 4 trong năm nay.
Fed đồng thời nâng triển vọng tăng trưởng năm nay từ 2,8% lên 3,1%, dự báo tăng trưởng giảm còn 2,5% trong năm 2019 – cao hơn so với mức 2,4% đưa ra trước đó, do lo ngại cuộc chiến thương mại với Trung Quốc leo thang, 2% trong năm 2020. Lạm phát dự báo ở gần 2% trong 3 năm tới, tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 3,5% trong năm 2019 và duy trì hết năm 2020 trước khi tăng nhẹ vào năm 2021. Tỷ lệ thất nghiệp hiện tại là 3,9%.
Vàng khá nhạy cảm với lãi suất cao bởi điều này có xu hướng đẩy đồng USD đi lên, qua đó khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn cho những người mua nắm giữ đồng tiền khác. Việc nâng lãi suất cũng giúp lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng cao, và làm giảm sức hấp dẫn của vàng.
Giá vàng đã giảm hơn 12% giá trị từ mức cao của tháng Tư do tình hình nền kinh tế Mỹ “sáng sủa”, đồn đoán lãi suất Mỹ cao hơn và lo ngại về cuộc chiến thương mại toàn cầu đã dẫn đến việc đồng USD tăng mạnh. Các nhà đầu tư có xu hướng tìm đến đồng USD làm kênh đầu tư an toàn, thay vì vàng - kim loại quý luôn được coi là công cụ bảo toàn nguồn vốn trong thời kỳ bất ổn.
Các chuyên gia phân tích của ngân hàng Commerzbank nhận định giá vàng có thể giao dịch trong khoảng 1.208-1.220 USD/ounce trong thời gian ngắn sắp tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,1% xuống 14,41 USD/ounce sau khi đạt mức cao của ba tuần hôm 25/9.
Trong khi đó, giá bạch kim giao ngay tăng 0,7% lên 828,60 USD/ounce và giá palađi tăng 0,7% lên 1.068,70 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm phiên thứ 3 liên tiếp do USD mạnh lên, với hợp đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,7% xuống 6.271 USD/tấn.
Trong khi đó, giá nhôm trên sàn London đã tăng thêm 0,4% lên 2.080 USD/tấn do dự trữ tại các kho ngoại quan của sàn này giảm xuống dưới 1 triệu tấn lần đầu tiên kể từ tháng 3/2008 (còn 999.925 tấn).
Giá thép tại Trung Quốc giảm phiên thứ 4 liên tiếp xuống mức thấp nhất 2 tuần do giao dịch chậm lại trước kỳ nghỉ lễ dài ngày sắp tới (Quốc khánh từ 1-5/10). Hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 0,6% xuống 4.064 CNY (591 USD)/tấn.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận định giá sẽ hồi phục trở lại sau kỳ nghỉ bởi Trung Quốc sắp áp lệnh hạn chế sản xuất trong mùa Đông ở miền Bắc để giảm ô nhiễm môi trường, trong đó riêng thành phố Đường Sơn – điểm sản xuất thép hàng đầu của Trung Quốc – phải cắt giảm tới 70% sản lượng.
Trái với thép, giá quặng sắt tăng, với hợp đồng giao tháng 1/2019 trêm sàn Đại Liên tăng 0,6% lên 500 CNY/tấn; quặng sắt giao ngay tại Tần Hoàng Đảo tăng 0,2% lên 69,24 USD/tấn.Các nhà máy thép và các thương gia Trung Quốc đang tích cực ký những hợp đồng dài hạn mua quặng sắt chất lượng cao trước khi thực hiện cắt giảm sản lượng trong mùa đông.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn giao tháng 10/2018 trên sàn New York giảm 0,46 US cent tương đương 4,4% xuống 9,9 US cent/lb, mức thấp chưa từng có trong vòng một thập kỷ qua. Hợp đồng giao tháng 3 năm sau cũng giảm 0,24 US cent tương đương 2,2% xuống 10,91 US cent/lb. Giá đường giao ngay đã giảm hơn 15% chỉ trong 10 phiên vừa qua, phần lớn cũng do lo ngại về việc Ấn Độ trợ cấp cho ngành đường. Đường trắng kỳ hạn giao tháng 12/2018 trên sàn London cũng giảm 5,8 USD tương đương 1,8% xuống 311,70 USD/tấn, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất 1 tháng là 311 USD/tấn.
Các quỹ đầu cơ đã đồng loạt bán tháo sau thông tin Ấn Độ, nước sản xuất đường hàng đầu thế giới – đã thông qua việc tăng tiền thanh toán cho người trồng mía cũng như trợ cấp cho việc vận chuyển đường tới các nhà máy. Các nhà máy đường Ấn Độ sẽ được khuyến khích xuất khẩu ít nhất 5 triệu tấn đường ra thị trường quốc tế.
Cà phê tăng trong phiên vừa qua, với arabica giao tháng 12/2018 tăng 0,65 US cent hay 0,7% lên 97,75 US cent/lb; robusta giao tháng 11/2018 tăng 4 USD hay 0,3% lên 1.511 USD/tấn.
Giá cao su tại Tokyo giảm do lo ngại gia tăng về khả năng Mỹ áp thuế lên ô tô nhập khẩu từ Nhật Bản – có thể ảnh hưởng tới nhu cầu ô tô cũng như lốp xe. Cao su kỳ hạn tháng 3/2019 trên sàn Tokyo giảm 0,9 JPY tương đương 0,5% xuống 169 JPY (1,5 USD)/kg. Nhà phân tích Toshitaka Tazawa của hãng môi giới Fujitomi Co. dự báo giá sẽ duy trì trong khoảng 165 – 170 JPY/kg thêm một thời gian nữa.
Nhật Bản đang cân nhắc một hiệp định song phương với Mỹ theo đó sẽ hạ thuế nhập khẩu nông sản Mỹ để đổi lại không bị Mỹ tăng thuế đối với ô thô Nhật.
Tại các thị trường khác, cao su tại Thượng Hải kỳ hạn giao tháng 1 năm sau tăng 10 CNY lên 12.505 CNY (1.818,57 USD)/tấn; tại Singapore kỳ hạn tháng 10 tới vững ở 133,1 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,57

-0, 71

 

Dầu Brent

USD/thùng

83,45

-0,53

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

54.180,00

+350,00

+0,65%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,02

-0,06

-1,98%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

208,10

+2,25

+1,09%

Dầu đốt

US cent/gallon

231,84

+1,86

+0,81%

Dầu khí

USD/tấn

716,00

+5,25

+0,74%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

72.350,00

+390,00

+0,54%

Vàng New York

USD/ounce

1.200,80

-1,70

-0,14%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.330,00

-19,00

-0,44%

Bạc New York

USD/ounce

14,45

+0,05

+0,34%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,10

-0,30

-0,57%

Bạch kim

USD/ounce

828,53

+5,53

+0,67%

Palađi

USD/ounce

1.074,21

+5,66

+0,53%

Đồng New York

US cent/lb

281,55

-1,25

-0,44%

Đồng LME

USD/tấn

6.282,00

-36,00

-0,57%

Nhôm LME

USD/tấn

2.065,00

-6,00

-0,29%

Kẽm LME

USD/tấn

2.540,00

+33,00

+1,32%

Thiếc LME

USD/tấn

18.875,00

-25,00

-0,13%

Ngô

US cent/bushel

361,75

-1,25

-0,34%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

515,25

-2,25

-0,43%

Lúa mạch

US cent/bushel

258,50

+1,50

+0,58%

Gạo thô

USD/cwt

9,79

-0,09

-0,91%

Đậu tương

US cent/bushel

847,25

-2,75

-0,32%

Khô đậu tương

USD/tấn

309,80

-1,10

-0,35%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,76

-0,03

-0,10%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

494,70

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.151,00

-44,00

-2,00%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,75

+0,65

+0,67%

Đường thô

US cent/lb

10,91

-0,24

-2,15%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

147,80

-2,00

-1,34%

Bông

US cent/lb

78,45

-0,10

-0,13%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

351,00

+14,10

+4,19%

Cao su TOCOM

JPY/kg

168,00

-1,00

-0,59%

Ethanol CME

USD/gallon

1,30

+0,01

+0,54%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg