Năng lượng: Giá dầu giảm nhẹ sau khi những “cơn gió ngược kinh tế” gây áp lực lên tâm lý nhà đầu tư, cản trở đà tăng xuất phất từ căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent kỳ hạn tháng 6 giảm 8 cent, tương đương 0,1% xuống 90,02 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 5 giảm 5 US cent, tương đương 0,1%, xuống 85,36 USD.
Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết loạt dữ liệu kinh tế đáng thất vọng cho thấy lạm phát cao hơn kỳ vọng có nghĩa là Cục Dự trữ Liên bang có thể sẽ cần nhiều thời gian hơn dự kiến để tin tưởng rằng lạm phát đang trên đà đạt tới 2%.
“Dữ liệu gần đây rõ ràng không giúp chúng tôi tăng thêm niềm tin, mà thay vào đó cho thấy rằng có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn dự kiến để đạt được niềm tin đó”, ông Powell nói trong một sự kiện được tổ chức tại Trung tâm Wilson ở Washington.
Tim Snyder, chuyên gia kinh tế tại Matador Economics, cho biết: “Lãi suất cao đang ‘giết chết’ thị trường, vì có vẻ như Fed đang mắc kẹt khi khi nền kinh tế tiếp tục bị ảnh hưởng bởi lạm phát”.
Về phía nguồn cung, dầu Brent đạt 92,18 USD vào thứ Sáu, mức cao nhất kể từ tháng 10 do lo ngại rằng Iran sẽ đáp trả cuộc tấn công ngày 1/4 của Israel vào khu đại sứ quán của nước này ở Damascus. Nhưng giá đã giảm vào thứ Hai sau cuộc phản công của Iran vào Israel cuối tuần qua tỏ ra ít gây thiệt hại hơn dự đoán.
Matthew Ryan, người phụ trách mảng chiến lược thị trường của công ty dịch vụ tài chính toàn cầu Ebury, cho biết: “Cho đến nay, thị trường có vẻ khá lạc quan trước căng thẳng gia tăng và lạc quan một cách thận trọng rằng phản ứng của Israel sẽ được kiềm chế và sẽ không xảy ra một cuộc chiến tranh tổng lực”.
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cho biết Mỹ có thể tìm cách làm giảm khả năng xuất khẩu dầu của Iran. Iran sản xuất hơn 3 triệu thùng dầu thô mỗi ngày với tư cách là nhà sản xuất chính trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ.
Tồn trữ dầu thô của Mỹ tăng 4,1 triệu thùng trong tuần vừa qua, trong khi tồn trữ xăng và sản phẩm chưng cất giảm lần lượt 2,5 triệu và 427.000 thùng, theo số liệu của Viện Dầu khí Mỹ. Con số này thấp hơn mức dự kiến là tồn trữ dầu thô tăng khoảng 1,4 triệu thùng.
Kim loại quý: Giá vàng ít thay đổi trong bối cảnh nhà đầu tư tiếp tục mua như một tài sản trú ẩn an toàn trong bối cảnh căng thẳng đang diễn ra ở Trung Đông bù đắp cho việc ngày càng giảm kỳ vọng Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất trong năm nay.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay vững ở 2.382,72 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 6 tăng 1% lên 2.407,8 USD. Kim loại màu vàng đã chạm mức cao nhất mọi thời đại, là 2.431,29 USD, vào thứ Sáu trước dự đoán về cuộc tấn công trả đũa của Iran nhằm vào Israel.
Giá bạc giao ngay giảm 2,4% xuống 28,17 USD/ounce, bạch kim giảm 1,2% xuống 958,03 USD và palladium giảm 2,3% xuống 1.012,00 USD.
Dữ liệu cho thấy doanh số bán lẻ của Mỹ trong tháng Ba tăng nhiều hơn dự kiến. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng ngày thứ hai liên tiếp, khiến vàng thỏi bị giảm sức ấp dẫn.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao tại Kitco Metals, cho biết: “Thị trường đang ở chế độ tạm nghỉ để chờ xem căng thẳng giữa Iran và Israel sẽ diễn biến ra sao. Nếu căng thẳng gia tăng, giá sẽ tiếp tục tăng hơn nữa”.
"Nếu xung đột ở Trung Đông giảm bớt, trọng tâm chú ý cảu thị trường sẽ chuyển sang Fed. Rõ ràng là Fed sẽ không thể sớm cắt giảm lãi suất, đây là yếu tố giảm giá đối với thị trường vàng và bạc."
Chủ tịch Fed Jerome Powell phát biểu trước hội đồng Thượng viện Mỹ chỉ hơn 5 tuần trước rằng Fed "không còn xa" để đạt được niềm tin vào việc lạm phát sẽ giảm xuống mức cần thiết để cắt giảm lãi suất nhưng các nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư và nhà phân tích đã mất một chút niềm tin vào triển vọng đó dựa trên một loạt dữ liệu kinh tế mạnh mẽ.
Deutsche Bank dự báo giá vàng ở mức 2.400 USD/ounce vào cuối năm và ở mức 2.600 USD vào tháng 12/2025, và cho biết thêm: “Chúng tôi nghĩ rằng vàng có khả năng duy trì nền tảng vững chắc vì bất kỳ hoạt động thu lợi nhuận nào của các nhà đầu tư ban đầu sẽ được thay thế bằng khoản đầu tư từ những người cho đến nay chưa tham gia vào hoạt động này, nhưng đồng ý về mặt triết học với hướng đi của nó”.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm do dữ liệu cho thấy hoạt động của các nhà máy Trung Quốc vẫn chậm chạp và khi kỳ vọng việc Fed cắt giảm lãi suất sẽ làm tăng sức mạnh đồng USD.
Kết thúc phiên, trên sàn kim loại London (LME), đồng kỳ hạn 3 tháng giảm 1,3% xuống 9.455,50 USD/tấn.
Giá đồng đã tăng gần 20% trong 2 tháng tính đến 15/4, khi chạm 9.640,50 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 6 năm 2022.
Dữ liệu hôm thứ Ba cho thấy sản lượng công nghiệp của Trung Quốc tháng 3 tăng 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái, chậm lại so với tốc độ 7% từ tháng 1 đến tháng 2 và thấp hơn nhiều so với kỳ vọng 6% của các nhà phân tích. Doanh số bán lẻ tháng 3 cũng yếu hơn dự kiến mặc dù nền kinh tế trong quý đầu tiên nói chung tăng trưởng nhanh hơn dự báo.
Ole Hansen, người phụ trách mảng chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo ở Copenhagen, cho biết: “Triển vọng kinh tế từ Trung Quốc dường như đang gây khó khăn cho thị trường. Một số nhà đầu cơ có thể đã thanh lý các vị thế tăng giá”. “Bất kỳ điểm yếu nào trong ngắn hạn sẽ khiến thị trường có nguy cơ bị thanh lý dài hạn vì những hợp đồng mua gần đây khi bán sẽ mang lại lợi nhuận.”
Đồng đô la đạt mức cao nhất trong 5 tháng sau khi số liệu doanh số bán lẻ của Mỹ cao hơn dự kiến, đặt ra câu hỏi về thời điểm Cục Dự trữ Liên bang có thể bắt đầu cắt giảm lãi suất. Đồng đô la mạnh hơn làm cho kim loại được định giá bằng loại tiền này trở nên đắt hơn đối với người mua sử dụng loại tiền tệ khác.
Giá nhôm phiên này vững ở mức 2.554,50 USD/tấn, sau khi giảm từ mức cao nhất 22 tháng đạt được hôm thứ Hai sau khi Mỹ và Anh yêu cầu các sàn LME và CME không nhận nhôm mới sản xuất của Nga.
Dữ liệu của sàn LME hôm thứ Ba cho thấy các nhà đầu tư đã đưa ra thông báo rằng họ muốn loại bỏ gần 80.000 tấn nhôm, khoảng 1/4 tổng lượng tồn kho hiện có, khỏi các kho đăng ký LME ở Gwangyang, Hàn Quốc, nơi mà các thương nhân cho biết là địa điểm phổ biến để lưu trữ nguyên liệu của Nga.
Giá nickel phiên này giảm 0,5% xuống 17.660 USD/tấn trong khi kẽm giảm 0,5% xuống 2.761 USD, chì giảm 1,9% xuống 2.144 USD và thiếc giảm 1,5% xuống 31.740 USD.
Nông sản: Giá đậu tương Mỹ tiếp tục giảm khi đồng đô la tăng gây áp lực lên thị trường. Giá lúa mì biến động nhẹ khi Ukraine dự báo sản lượng ngũ cốc từ năm 2023 liên tục giảm, trong khi giá ngô đi ngang trong bối cảnh ước tính vụ mùa Nam Mỹ giảm.
Kết thúc phiên, giá đậu tương giao tháng 5 trên sàn Chicago giảm 13-1/4 cent xuống 11,45 USD/bushel; ngô giảm 1/2 cent xuống 4,31 USD/bushel và lúa mì giảm 2 cent xuống 5,49-3/4 USD/bushel.
Đồng USD tăng mạnh nhất kể từ tháng 11/2023 so với rổ tiền tệ, khiến hàng nông sản của Mỹ trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua bằng các loại tiền tệ khác và có khả năng gây tổn hại đến nhu cầu xuất khẩu của Mỹ. Các nhà cung cấp đậu tương và ngô của Mỹ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về doanh số xuất khẩu toàn cầu từ Nam Mỹ, trong khi Nga đã xuất khẩu một lượng lớn lúa mì.
Tuy nhiên, nhà tư vấn cây trồng Michael Cordonnier cho biết ông đã hạ dự báo sản lượng ngô Argentina từ 3 triệu tấn xuống còn 50 triệu tấn do bệnh còi cọc ở ngô. Tại Brazil, ước tính vụ thu hoạch ngô thứ hai ở bang Parana, bang sản xuất lớn thứ hai quốc gia, có thể sẽ bị cắt giảm trong lần điều chỉnh tiếp theo, một quan chức tại cơ quan trồng trọt Deral cho biết.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 giảm 0,39 cent, tương đương 1,9%, xuống 19,63 cent/lb sau khi chạm mức thấp nhất 16 tháng là 19,28 cent. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 1,8% xuống 570,00 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, sản lượng đường ở Ấn Độ và Thái Lan cao hơn dự kiến đã khiến các nhà giao dịch tạm dừng để đánh giá xu hướng. Mưa gần đây ở Brazil cũng đã cải thiện triển vọng sản xuất mía trong niên vụ 2024/25 và sự suy yếu của đồng tiền Brazil có khả năng thúc đẩy việc bán ra từ các nhà máy ở nước này.
Bộ Nông nghiệp Pháp hôm thứ Ba chốt diện tích củ cải đường năm nay ở mức 399.000 ha, tăng 4,9% so với năm 2023.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 tăng 28 USD, tương đương 0,7%, lên 3.977 USD/tấn sau khi đạt đỉnh 4.036 USD, mức cao nhất kể từ khi hợp đồng hiện tại bắt đầu giao dịch vào năm 2008. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 tăng 0,7% lên 2,2840 USD/lb.
Các đại lý cho biết nguồn cung tại Việt Nam rất eo hẹp trong khi thời tiết khô hạn đe dọa làm giảm quy mô vụ mùa tới tại nhà sản xuất robusta hàng đầu thế giới.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản kết thúc chuỗi giảm 4 phiên liên tiếp, hồi phục trở lại trong phiên vừa qua khi giá dầu tăbg và đồng yên yếu đi, mặc dù dữ liệu sản lượng công nghiệp và doanh số bán lẻ của Trung Quốc thấp hơn dự kiến gây áp lực lên tâm lý người tiêu dùng.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) đóng cửa tăng 0,7 yên, tương đương 0,22%, lên 314,3 yên (2,03 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 205 nhân dân tệ, kết thúc ở mức 14.515 nhân dân tệ (2.005,19 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên sàn Singapore giảm 1,16% xuống 161,7 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
84,95
|
-0,41
|
-0,48%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
89,63
|
-0,39
|
-0,43%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
280,71
|
-1,52
|
-0,54%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,69
|
-0,05
|
-2,66%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
264,31
|
-0,82
|
-0,31%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.398,70
|
-9,10
|
-0,38%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.382,75
|
-0,14
|
-0,01%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
28,22
|
-0,16
|
-0,57%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
954,52
|
-4,68
|
-0,49%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
429,50
|
-0,85
|
-0,20%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.468,00
|
-108,00
|
-1,13%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.561,50
|
+6,50
|
+0,25%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.771,00
|
-3,50
|
-0,13%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
31.820,00
|
-410,00
|
-1,27%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
442,75
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
565,75
|
+1,00
|
+0,18%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
341,00
|
-5,00
|
-1,45%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
18,48
|
+0,12
|
+0,63%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.159,25
|
-0,75
|
-0,06%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
337,00
|
+0,20
|
+0,06%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
45,41
|
-0,07
|
-0,15%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
621,50
|
-2,00
|
-0,32%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
9.819,00
|
-740,00
|
-7,01%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
228,40
|
+1,55
|
+0,68%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
19,53
|
-0,29
|
-1,46%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
364,05
|
-10,00
|
-2,67%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
83,14
|
+0,05
|
+0,06%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
164,00
|
+0,90
|
+0,55%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|