Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 2% sau khi Nga thông báo sẽ cắt giảm sản lượng trong tháng tới, song đà tăng bị hạn chế do đồng USD tăng mạnh và tồn trữ dầu thô của Mỹ cao hơn so với dự kiến làm gia tăng mối lo ngại về nhu cầu.
Giá dầu tăng ngay từ đầu phiên do kế hoạch cắt giảm xuất khẩu dầu mỏ từ các cảng phía tây của Nga lên tới 25% trong tháng 3/2023, vượt quá mức cắt giảm sản lượng 500.000 thùng/ngày đã công bố.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 1,61 USD, tương đương 2%, lên 82,21 USD/thùng. Mặc dù vậy, giá này thấp hơn khá nhiều so với mức 98 USD/thùng trước khi xảy ra xung đột Nga – Ukraine cách đây 1 năm. Giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) cũng tăng 1,44 USD, tương đương 2%, lên 75,39 USD/thùng, kết thúc chuỗi giảm 6 phiên liên tiếp.
Trong khi đồng USD tăng mạnh là trở ngại đối với giá dầu thô trong ngắn hạn. Các nhà phân tích thuộc UBS dự kiến, sản lượng dầu thô của Nga giảm và Trung Quốc mở cửa trở lại sẽ thắt chặt thị trường dầu mỏ và hỗ trợ giá.
Chỉ số đồng USD tăng phiên thứ 3 liên tiếp sau biên bản mới nhất từ cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho thấy phần lớn các quan chức của Fed đồng ý rằng rủi ro lạm phát vẫn cao và cần tăng lãi suất hơn nữa.
Đồng bạc xanh tăng mạnh khiến dầu định giá bằng đồng USD trở nên đắt hơn khi mua bằng các loại tiền tệ khác và ảnh hưởng đến nhu cầu.
Trong phiên trước đó, cả hai loại dầu đều giảm hơn 2 USD/thùng sau biên bản cuộc họp của Fed được công bố. Giá chịu áp lực giảm sau số liệu của chính phủ Mỹ cho thấy tồn trữ dầu thô của nước này tăng lần thứ 9 liên tiếp trong tuần trước, làm dấy lên mối lo ngại về nhu cầu.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) ngày 23/2 công bố báo cáo cho thấy dự trữ dầu thô thương mại của nước này tăng 7,6 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 17/2, vượt dự báo của các nhà phân tích.
Tony Headrick, nhà phân tích thị trường năng lượng thuộcCHS Hedging cho biết: “Đối với áp lực từ Cục Dự trữ Liên bang về nhu cầu và thời tiết ấm lên ở Mỹ và Châu Âu, có mối lo ngại chung về phía nhu cầu”.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng hơn 6% trong phiên này do dự báo thời tiết trong 2 tuần tới lạnh hơn và mức tiêu thụ hàng tuần cao hơn so với dự kiến trước đó. Theo đó, khí tự nhiên kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn New York tăng 14 US cent tương đương 6,4% lên 2,31 USD/mmBTU, sau khi giảm xuống mức thấp nhiều tháng trong phiên trước đó.
Trên sàn Đại Liên, giá than luyện cốc kỳ hạn tháng 5/2023 tăng 2,6% lên 2.020,5 CNY (293,35 USD)/tấn, sau khi đạt 2.085 CNY/tấn – cao nhất kể từ giữa tháng 6/2022. Giá than cốc, được sử dụng trong ngành luyện kim, bao gồm luyện quặng sắt, tăng 1,4% lên 2.929,5 CNY/tấn. Trước đó, giá đã đạt mức cao nhất trong ba tuần là 2.979 nhân dân tệ.
Trung Quốc là nước sản xuất thép lớn nhất thế giới và Nội Mông là một trong những nguồn cung cấp than đá hàng đầu của Trung Quốc đã sản xuất ra mặt hàng này với tốc độ cao trong nhiều tháng qua để đáp ứng lời kêu gọi của chính phủ nhằm tăng nguồn cung địa phương và ổn định giá cả.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng sau khi số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ tuần qua giảm cho thấy Cục Dự trữ Liên bang sẽ giữ quan điểm tăng lãi suất hơn nữa để kiểm soát lạm phát.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.823,16 USD/ounce, đầu phiên có lúc chạm mức thấp nhất kể từ ngày 30/12/2022; vàng kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn New York giảm 0,8% xuống 1.826,8 USD/ounce.
Số người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp bất ngờ giảm trong tuần trước, cho thấy thị trường lao động thắt chặt và áp lực lạm phát. Trong khi đó, tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ tăng với tốc độ hàng năm là 2,7% trong quý 4/2022, giảm so với 2,9% báo cáo tháng trước.
Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures cho biết, mặc dù các con số GDP thấp hơn kỳ vọng một chút, nhưng việc giảm số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp đã giúp Fed giữ được vị trí của người điều khiển để họ có thể tiếp tục tăng lãi suất.
Biên bản cuộc họp ngày 31/1 và 1/2 của Fed cho thấy các nhà hoạch định chính sách đều nhất trí rằng lãi suất sẽ cần phải tăng cao hơn, nhưng có thể cũng đến lúc cần chuyển sang các đợt tăng ít hơ.
Ông Haberkron nhấn mạnh: “Cách duy nhất để chống lại lạm phát là tăng lãi suất và cách duy nhất để nó biến mất là khi người tiêu dùng rút tiền, nhưng người tiêu dùng vẫn chưa rút tiền… họ vẫn đang mua”.
Thị trường dự đoán lãi suất của Fed sẽ tăng lên 5,25-5,50% và giảm kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất trong tương lai.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,9% xuống 21,31 USD/ounce, bạch kim giảm 0,2% xuống 947,33 USD và palladium giảm 2,9% xuống 1.439,82 USD. UBS dự kiến giá palladium, làm chất xúc tác tự động, sẽ giảm xuống còn 1.400 USD/ounce vào cuối tháng 12 do sự kết hợp của tăng trưởng kinh tế chậm lại và sự thay thế bằng bạch kim.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do dự đoán Mỹ tiếp tục tăng lãi suất đã gây ra sự thận trọng trên các thị trường và thúc đẩy đồng USD tăng, khiến đồng trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2,3% xuống 8.906,5 USD/tấn và có phiên giảm mạnh nhất kể từ ngày 15/12/2022. Giá đồng đã tăng lên mức cao nhất 7 tháng (9.550,5 USD/tấn) trong tháng 1/2023 do đồng USD giảm.
Tuy nhiên, dữ liệu kinh tế của Mỹ vẫn mạnh mẽ một cách đáng ngạc nhiên và biên bản cuộc họp mới nhất của Cục Dự trữ Liên bang tiết lộ kế hoạch giảm tốc độ tăng lãi suất nhưng không dừng lại.
Đồng USD tăng lên mức mạnh nhất kể từ ngày 6 tháng 1 và các nhà phân tích cho biết họ dự đoán lãi suất dài hạn cao hơn sẽ đẩy thị trường chứng khoán toàn cầu đi xuống trong ba tháng tới.
Nhà phân tích Nitesh Shah của WisdomTree cho biết: "Fed muốn giảm lạm phát, và điều đó có nghĩa là tăng lãi suất trong thời gian dài hơn. Điều đó đang làm tổn hại đến các kim loại cơ bản".
"Sự mất giá của đồng đô la đã đảo chiều. Trên hết, sự lạc quan về việc Trung Quốc mở cửa trở lại đang vụt tắt."
Các nhà đầu cơ đã hy vọng nhu cầu kim loại của Trung Quốc sẽ phục hồi sau khi nước này từ bỏ các biện pháp kiểm soát COVID-19 vào cuối năm ngoái. Nhưng nhu cầu như vậy vẫn chưa thành hiện thực và kim loại đang chất đống trong các kho.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,9% xuống 2.396 USD/tấn, kẽm giảm 1% xuống 3.026 USD, niken giảm 3,9% xuống 25.400 USD/tấn, chì giảm 2,1% xuống 2.059,50 USD và thiếc mất 2,4% xuống 26.200 USD/tấn.
Giá sắt thép phiên này giảm khi các thương nhân thận trọng sau động thái của Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên, nhằm hạn chế hoạt động đầu cơ đẩy giá cao hơn gần đây.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên giảm 0,5% xuống 908,5 CNY (131,9 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore tăng 0,5% lên 130,7 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,4%, thép cuộn cán nóng giảm 0,3%, thép cuộn tăng 0,8%, trong khi thép không gỉ giảm 1%.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ chạm mức thấp nhất 6 tuần, khi chính phủ Mỹ dự kiến diện tích trồng ngô trong năm nay tăng và giá sẽ giảm; giá đậu tương và lúa mì cũng theo xu hướng giảm. USDA dự báo tổng sản lượng lúa mì của Mỹ là 1,887 tỷ bushel, với năng suất trung bình là 49,2 bushel/acre, tăng 6% so với mức trung bình 46,5 bushel năm trước khi bị hạn hán.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2023 kết thúc phiên giảm 15 US cent xuống 6,59-1/4 USD/bushel và chạm mức thấp nhất kể từ ngày 12/1/2023 (6,57-1/2 USD/bushel); đậu tương kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 7-1/2 US cent xuống 15,27-1/4 USD/bushel; trong khi lúa mì kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 1/2 US cent lên 7,5-1/2 USD/bushel, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 7/2/2023 (7,46-3/4 USD/bushel) trong phiên trước đó.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,29 US cent tương đương 1,4% lên 21,58 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London tăng 7,7 USD tương đương 1,4% lên 574,7 USD/tấn.
Fitch Solutions hôm thứ Năm dự đoán giá đường thô trung bình sẽ tăng 2% trong năm nay do sản lượng có thể sẽ gây thất vọng ở nhiều khu vực khác nhau, bao gồm Châu Âu và Ấn Độ, trong khi nhu cầu ở Trung Quốc sẽ phục hồi.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn New York giảm 3,65 US cent, tương đương 1,9%, xuống 1,897 USD/lb, giảm từ mức cao nhất 4 tháng (1,9415 USD/lb) trong phiên trước đó; cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London giảm 44 USD tương đương 2% xuống 2.161 USD/tấn.
Thị trường được củng cố bởi tình trạng khan hiếm trên thị trường vật chất ở Brazil và Colombia trong khi lượng dự trữ ở các sàn giao dịch giảm, nhưng họ nói thêm rằng đã xuất hiện hiện tương mua quá mức sau đợt tăng đột biến gần đây.
Dữ liệu của Bộ Thương mại Brazil cho thấy xuất khẩu cà phê đã giảm 45% trong tháng 2, trong khi nhà môi giới HedgePoint cắt giảm quan điểm về vụ mùa mới.
Dự trữ arabica được ICE chứng nhận giảm xuống còn 809.566 bao vào thứ Năm sau khi giảm hơn 80.000 bao trong hai tuần qua. Có 10.412 bao đang chờ phân loại.
Giá cà phê trong nước tại Việt Nam dao động gần mức cao nhất trong 6 tháng vào thứ Năm, theo xu hướng tăng vọt của giá toàn cầu, trong khi giá cà phê tại Indonesia giảm do nước này bắt đầu bước vào vụ thu hoạch mới.
Tại Tây Nguyên, cà phê nhân xô được bán với giá 45.000-49.500 VND (1,89-2,08 USD)/kg, tăng so với 43.700-44.500 VND/kg 1 tuần trước đó. Trong khi đó, tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 40 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2023, giảm so với mức cộng 90 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Giá cao su Malaysia tiếp tục xu hướng tăng theo xu hướng giấ trên thị trường Thượng Hải và giá dầu thô phục hồi. Theo đó, giá cao su Malaysia tăng 11,50 sen lên 621,5 sen/kg, trong khi mủ cao su rời tăng 2,50 sen lên 538,5 sen/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,00
|
+0,61
|
+0,81%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
82,82
|
+0,61
|
+0,74%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
65.180,00
|
+50,00
|
+0,08%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,34
|
+0,03
|
+1,21%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
239,96
|
+2,01
|
+0,84%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
273,47
|
+2,66
|
+0,98%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
797,00
|
+13,50
|
+1,72%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.831,80
|
+5,00
|
+0,27%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.888,00
|
-63,00
|
-0,79%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,46
|
+0,02
|
+0,10%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
92,70
|
-2,20
|
-2,32%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
950,26
|
-0,92
|
-0,10%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.452,43
|
+0,30
|
+0,02%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
406,05
|
+0,45
|
+0,11%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.904,00
|
-208,00
|
-2,28%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.396,00
|
-22,00
|
-0,91%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.034,50
|
-22,50
|
-0,74%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
26.171,00
|
-677,00
|
-2,52%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
661,00
|
+1,75
|
+0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
752,25
|
+1,75
|
+0,23%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
344,50
|
+0,25
|
+0,07%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,05
|
+0,04
|
+0,21%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.529,00
|
+1,75
|
+0,11%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
478,80
|
+0,80
|
+0,17%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
62,33
|
+0,15
|
+0,24%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
821,90
|
-0,80
|
-0,10%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.770,00
|
-9,00
|
-0,32%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
189,70
|
-3,65
|
-1,89%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,34
|
+0,44
|
+2,21%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
238,40
|
+3,50
|
+1,49%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,16
|
+0,28
|
+0,34%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
372,60
|
-1,40
|
-0,37%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
143,00
|
+0,10
|
+0,07%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|