Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục đà tăng từ phiên hôm trước do nguy cơ gián đoạn nguồn cung từ khu vực người Kurd ở Iraq và hy vọng rằng tình trạng hỗn loạn trong lĩnh vực ngân hàng được kiềm chế.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô Brent tăng 53 US cent, tương đương 0,7% lên 78,65 USD/thùng; dầu ngọt nhe (WTI) của Mỹ tăng 39 US cent (0,5%) lên 73,20 USD/thùng.
Hôm thứ Hai, giá đã tăng hơn 3 USD sau khi Iraq buộc phải ngừng xuất khẩu khoảng 450.000 thùng mỗi ngày (bpd) từ khu vực người Krud ở phía bắc nước này qua Thổ Nhĩ Kỳ sau khi có quyết định trọng tài xác nhận cần có sự đồng ý của Baghdad để vận chuyển dầu.
John Kilduff, một đối tác của Again Capital ở New York, cho biết: “Mất lượng dầu ở miền bắc Iraq này là một vấn đề đối với thị trường và tôi nghĩ rằng điều đó đang bị đánh giá thấp”.
Barclays cho biết bất kỳ đợt ngừng xuất khẩu kéo dài nào của người Kurd cho đến cuối năm sẽ có nghĩa là giá dầu Brent tăng 3 USD/thùng so với dự báo giá dầu Brent 92 USD/thùng của ngân hàng này cho năm 2023.
Thông báo hôm thứ Hai rằng First Citizens BancShares Inc sẽ mua các khoản tiền gửi và khoản vay của Ngân hàng Silicon Valley đã nuôi hy vọng cho lĩnh vực này và khiến cổ phiếu ngân hàng châu Âu tăng cao hơn.
Ông Jim Ritterbusch của công ty tư vấn Ritterbusch and Associates cho biết: “Những lo ngại về các vấn đề ngân hàng hiện đã lắng xuống và tạm thời làm giảm bớt những dự đoán về một cuộc suy thoái. Theo ông, đồng USD yếu đi khiến dầu trở nên rẻ hơn đối với người mua bằng các tiền tệ khác cũng làm tăng giá dầu thô.
Giá dầu dự kiến sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ các dấu hiệu phục hồi nhu cầu tại Trung Quốc. Nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc dự kiến sẽ tăng 6,2% vào năm 2023 lên 540 triệu tấn, một dự báo hàng năm của một đơn vị nghiên cứu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc cho biết.
Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak hôm thứ Ba cho biết Nga cần tập trung vào việc thúc đẩy xuất khẩu năng lượng sang các nước được gọi là thân thiện và lưu ý rằng nguồn cung dầu của Nga cho Ấn Độ đã tăng 22 lần vào năm ngoái.
Các kho dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng khoảng 200.000 thùng vào tuần trước, một cuộc thăm dò sơ bộ của Reuters cho thấy hôm thứ Hai, nhưng các nhà phân tích cho biết các sản phẩm như xăng có thể giảm.
Dự trữ dầu thô của Mỹ giảm khoảng 6,1 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 24 tháng 3, trong khi dự trữ xăng giảm khoảng 5,9 triệu thùng và dự trữ sản phẩm chưng cất tăng khoảng 550.000 thùng, theo các nguồn tin thị trường trích dẫn số liệu của Viện Dầu khí Mỹ hôm thứ Ba.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do đồng USD yếu đi ngay cả khi lợi suất trái phiếu tăng và thị trường giảm bớt lo lắng về lĩnh vực ngân hàng - đã hạn chế lợi nhuận đối với tài sản trú ẩn an toàn.
Sau hai phiên giảm, giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.970,88 USD/ounce, vàng giao sau cũng tăng 1% ở mức 1.973,50 USD.
Giá bạc giao ngay phiên này tăng 0,6% lên 23,23 USD/ounce, bạch kim giảm 0,7% xuống 965,19 USD, trong khi palladium tăng 1% lên 1.422,61 USD.
Chỉ số Dollar index giảm khoảng 0,4%, khiến kim loại quý được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cao cấp của Kitco Metals, cho biết: "Chỉ số USD hôm nay giảm làm tăng thêm một số nhu cầu mua vào trên thị trường vàng. Tuy nhiên, nhu cầu mua chắc chắn đang bị kìm hãm bởi thực tế là khó khăn của 1 số ngân hàng, ít nhất là vào thời điểm hiện tại, dường như đã ổn định".
Phố Wall chật vật tìm hướng đi khi các nhà đầu tư cân nhắc những lo ngại về lĩnh vực ngân hàng, trong khi lợi tức trái phiếu kho bạc tăng trong bối cảnh tập trung vào quỹ đạo lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Ông Ole Hansen, trưởng bộ phận chiến lược hàng hóa của Saxo Bank, cho biết trong thời gian tới, giá vàng có thể giảm xuống mức 1.933 USD, nhưng triển vọng của vàng vẫn là tăng giá với lãi suất của Mỹ đang nhanh chóng đạt đỉnh và nguy cơ rơi vào suy thoái trong những tháng tới.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá niken chạm mức cao nhất trong 3 tuần vào thứ Ba, được thúc đẩy bởi hàng tồn kho giảm và các nhà đầu cơ mua bù đắp thiếu hụt, nhưng kỳ vọng nguồn cung tăng từ Indonesia đã hạn chế đà tăng.
Trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), niken kỳ hạn 3 tháng tăng 0,7% lên 24.010 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi có lúc chạm mức mạnh nhất kể từ ngày 7 tháng 3, là 24.310 USD.
Giá niken đã giảm 28% trong khoảng 7 tuần do lo ngại về nhu cầu yếu và sản lượng tăng ở Indonesia, trước khi hồi phục vào tuần trước.
Nhà tư vấn độc lập Robin Bhar cho biết: “Niken đã bị lạm dụng quá mức, nhưng tôi cho rằng mức 23.000 USD hoặc 24.000 USD là giá trị cân bằng, hợp lý cho thị trường niken”.
“Nhu cầu sẽ mạnh, không nghi ngờ gì về điều đó, nhưng có rất nhiều nguồn cung đến từ Indonesia, vì vậy tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ có một thị trường cân bằng hoặc chuyển sang thặng dư trong năm nay.”
Nhà môi giới Marex cho biết trong một báo cáo rằng vị thế đầu cơ bán khống trên sàn LME đạt 20% hợp đồng mở vào cuối ngày thứ Sáu, mức lớn nhất kể từ tháng 7 năm 2022.
Giá niken tăng vọt vào thứ Sáu sau khi dữ liệu cho thấy hàng tồn kho niken trong các kho liên kết với Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 28% trong tuần xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7 năm ngoái.
Giá đồng giao sau 3 tháng cũng tăng 0,2% lên 8.985,50 USD/tấn, được hỗ trợ bởi thị trường giảm bớt lo ngại về sức khỏe của ngành ngân hàng. Trong khi đó, giá nhôm tăng 1% lên 2.387,50 USD/tấn, kẽm tăng 0,6% lên 2.930 USD, thiếc tăng 1,2% lên 25.725 USD và chì giảm 0,4% xuống 2.125,50 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tiếp tục phục hồi vào thứ Ba khi giảm bớt lo ngại về lĩnh vực ngân hàng nâng giá thép tại Thượng Hải, mặc dù lo ngại kéo dài về triển vọng nhu cầu tại nhà sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc đã hạn chế mức tăng.
Tồn kho quặng sắt tại cảng của Trung Quốc giảm cũng hỗ trợ cho nguyên liệu sản xuất thép, vốn đã rơi vào tình trạng bán quá mức vào tuần trước trong bối cảnh lo ngại đặc biệt về nhu cầu thép xây dựng giảm.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 1,8% lên 882 nhân dân tệ (128,11 USD)/tấn. Hợp đồng này đã tăng 1,3% trong phiên trước đó, kết thúc chuỗi 7 phiên giảm liên tiếp. Trên Sàn giao dịch Singapore, quặng sắt giao tháng 4 tăng 1,8% lên 122,65 USD/tấn.
Giá thép cây trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,8%, thép cuộn cán nóng tăng 0,5%, dây thép cuộn tăng 1,8% và thép không gỉ tăng 0,2%.
Các nhà phân tích cho biết những lo ngại về khủng hoảng tín dụng toàn cầu có thể kìm hãm tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại, cùng với chiến lược tồn kho thấp của các nhà máy thép Trung Quốc do hạn chế sản xuất và rủi ro pháp lý có thể sẽ kìm hãm mức tăng quặng sắt. Họ cho biết thị trường bất động sản yếu kém ở Trung Quốc, một động lực chính thúc đẩy nhu cầu đối với thép, cũng được cho là sẽ khiến tâm lý thị trường suy yếu.
Tuy nhiên, bất kỳ sự sụt giảm nào của giá quặng sắt cũng có thể bị hạn chế, đặc biệt là kho dự trữ cảng ở Trung Quốc ở mức thấp nhất kể từ đầu tháng 2, dựa trên dữ liệu tư vấn của SteelHome.
Các nhà phân tích của Ngân hàng Quốc gia Úc cho biết: “Thị trường vẫn nhạy cảm với những thay đổi ngắn hạn về hàng tồn kho tại cảng”.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì và đậu tương Mỹ kỳ hạn tương lai kết thúc phiên thứ Ba tăng, trong khi ngô gần như không đổi do các thương nhân nghi ngờ về sự chậm trễ trong việc gieo trồng ở Mỹ và thời tiết bất lợi trước báo cáo về tiến độ gieo hạt ở Mỹ.
Các nhà phân tích được Reuters thăm dò trước báo cáo dự kiến trung bình diện tích trồng ngô năm 2023 là 90,880 triệu acre, lúa mì là 48,852 triệu acre và đậu tương là 88,242 triệu acre. Các nhà phân tích cho biết, lúa mì vụ xuân tăng giá bởiđồn đoán về việc trì hoãn gieo trồng ở vùng đồng bằng phía bắc Mỹ do thời tiết lạnh giá. Các thương nhân cho biết, đậu tương cũng được hỗ trợ bởi giao dịch kỹ thuật và triển vọng thu hoạch ảm đạm ở Argentina.
Kết thúc phiên, hợp đồng lúa mì giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch Thương mại Chicago (CBOT) tăng 1-3/4 cent lên 6,99-3/4 USD/bushel; đậu tương tăng 25-1/2 cent hay 1,8%, mức tăng phần trăm mạnh nhất 4,5 tháng của hợp đồng giao dịch nhiều nhất, đạt 14,67-3/4 USD/bushel, trong khi ngô giảm 1 US cent xuống 6,47-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 tăng 0,38 cent, tương đương 1,8%, lên 21,31 cent/lb, được hỗ trợ bởi đồng USD giảm và đà tăng trên thị trường năng lượng. Giá đường trắng giao tháng 5 tăng 12,70 USD, tương đương 2,1%, lên 616,20 USD/tấn, mức cao nhất trong 6 tháng.
Bang sản xuất đường hàng đầu của Ấn Độ, Maharashtra, có thể sản xuất đường ít hơn gần 16% so với ước tính trước đây do các nhà máy đóng cửa sớm do nguồn mía hạn chế.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 giảm 29 USD, tương đương 1,3%, xuống ở mức 2.185 USD/tấn; cà phê arabica giao tháng 5 giảm 3,15 cent, tương đương 1,8%, xuống 1,7375 USD/lb.
Thị trường vẫn bị giới hạn trong phạm vi giá giao dịch gần đây. Các đại lý cho biết giá robusta tăng một phàn do việc sử dụng cà phê pha trộn ngày càng tăng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, do chi phí thấp hơn so với arabica.
Giá cao su giảm sau khi đạt mức tăng hàng ngày lớn nhất kể từ tháng 1 năm 2022 trong phiên trước đó, do đồng yên tăng và giá dầu giảm làm giảm tâm lý phục hồi của các nhà giao dịch.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 của Sở giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên giảm 0,7 yên, tương đương 0,3%, xuống 210,0 yên (1,60 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 3 của sàn OSE đã đáo hạn ở mức 203,2 yên/kg vào thứ Hai.
Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 5 tăng 100 NDT lên 11.930 NDT (1.733,33 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore đạt 133,6 US cent/kg, tăng 0,5% so với phiên liền trước.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
73,74
|
+0,54
|
+0,74%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
78,99
|
+0,34
|
+0,43%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
62,450,00
|
+880,00
|
+1,43%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,02
|
-0,01
|
-0,74%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
272,24
|
+1,03
|
+0,38%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
275,38
|
-1,58
|
-0,57%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
777,25
|
-5,50
|
-0,70%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75,000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1,988,10
|
-2,30
|
-0,12%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8,306,00
|
+94,00
|
+1,14%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,40
|
-0,02
|
-0,09%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
96,50
|
+1,50
|
+1,58%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
964,01
|
-3,77
|
-0,39%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1,420,00
|
-5,34
|
-0,37%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
407,35
|
-1,20
|
-0,29%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8,978,00
|
+14,00
|
+0,16%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2,389,00
|
+25,50
|
+1,08%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2,936,50
|
+24,50
|
+0,84%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25,770,00
|
+349,00
|
+1,37%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
647,50
|
+0,25
|
+0,04%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
699,25
|
-0,50
|
-0,07%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
378,25
|
-1,00
|
-0,26%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,72
|
-0,03
|
-0,17%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1,465,50
|
-2,25
|
-0,15%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
458,10
|
+0,20
|
+0,04%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
54,79
|
-0,26
|
-0,47%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
755,50
|
-6,90
|
-0,90%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2,901,00
|
-1,00
|
-0,03%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
173,75
|
-3,15
|
-1,78%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
21,31
|
+0,38
|
+1,82%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
252,40
|
-0,15
|
-0,06%
|
Bông
|
US cent/lb
|
81,82
|
-0,70
|
-0,85%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
382,20
|
-15,70
|
-3,95%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
135,30
|
-0,30
|
-0,22%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|