Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm 1% sau 6 tuần tăng liên tiếp do nhu cầu yếu hơn từ Trung Quốc và Mỹ khi mùa lái xe sắp kết thúc - vào đầu tháng 9.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô Brent giảm 90 cent, tương đương 1,04%, xuống mức 85,34 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 88 cent, tương đương 1,06%, xuống 81,94 USD/thùng.
Các nhà phân tích cho rằng mùa lái xe cao điểm (mùa Hè) ở Mỹ sẽ kết thúc vào đầu tháng 9 và nhu cầu tại Trung Quốc được cho là sẽ giảm là nguyên nhân khiến giá dầu giảm.
John Kilduff, đối tác của công ty đầu tư Again Capital, cho rằng khả năng nhu cầu của Trung Quốc giảm đang gây sức ép lên thị trường.
Robert Yawger, giám đốc phụ trách các hợp đồng năng lượng giao kỳ hạn thuộc công ty chứng khoán Mizuho Securities USA cho rằng “Mùa lái xe mùa hè đang kết thúc ở Hoa Kỳ. "Nếu bạn không cần nhiều xăng, bạn không cần nhiều dầu."
Chỉ số USD tăng so với các đồng tiền mạnh khác, sau khi giảm trong phiên cuối tuần trước, do phát biểu của quan chức Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) ủng hộ việc tiếp tục tăng lãi suất. Đồng bạc xạnh mạnh lên sẽ khiến dầu đắt hơn đối với các nhà đầu tư mua mặt hàng này bằng các đồng tiền khác. Thống đốc Fed Michelle Bowman cho rằng có thể cần tiếp tục tăng lãi suất để đưa lạm phát về mức mục tiêu 2%.
Ngoài ra, công ty ống dẫn dầu Ba Lan PERN cho biết sẽ nối lại đường ống vận chuyển dầu đến châu Âu vào ngày 8/8, làm giảm bớt lo lắng về tình trạng hạn chế nguồn cung. PERN đã ngừng bơm một phần của đường ống Druzhba sau khi phát hiện rò rỉ ở miền trung Ba Lan hôm thứ Bảy vừa qua.
Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu thế giới, tuần trước đã gia hạn quyết định cắt giảm sản lượng đến cuối tháng 9 và có thể tiếp tục sau đó. Để phù hợp với việc cắt giảm sản lượng, Saudi Aramco hôm thứ Bảy đã tăng giá bán chính thức đối với hầu hết các loại mà họ bán sang châu Á trong tháng Chín, là tháng tăng thứ 3 liên tiếp.
Nguồn cung càng trở nên thắt chặt sau khi Nga thông báo sẽ cắt giảm xuất khẩu dầu 300.000 thùng/ngày vào tháng 9.
Dữ liệu kinh tế của Trung Quốc được công bố tuần này sẽ cho thấy đòi hỏi thực hiện thêm các biện pháp kích thích của nước này.
Các nhà đầu tư cũng theo dõi số liệu về chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ sẽ công bố vào ngày 10/8 để nhận định về lộ trình chính sách tiền tệ của Fed.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trở lại sau khi Thống đốc Fed Michelle Bowman chỉ ra rằng có thể cần phải tăng thêm lãi suất để kiềm chế lạm phát.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.936,44 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12 giảm 0,3% xuống 1.970,00 USD.
Trong bài phát biểu chuẩn bị gửi tới một sự kiện "Fed Listens" ở Atlanta, Bowman đã lặp đi lặp lại những bình luận mà bà đã nói trong một cuộc họp các lãnh đạo ngân hàng vào thứ Bảy, cho biết bà ủng hộ lần tăng lãi suất nữa vì lạm phát vẫn còn quá cao.
Theo các nhà phân tích, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng đang khiến các nhà đầu tư gạt vàng sang một bên như một tài sản trú ẩn an toàn. Ngoài ra, sức mạnh đồng đô la tiếp tục được thấy gần đây khiến hàng hóa trú ẩn an toàn trở nên kém hấp dẫn hơn.
Nhà phân tích Edward Moya của Oanda cho biết: “Nếu lợi suất trái phiếu kho bạc tăng cao hơn mức tăng của tuần trước, điều đó có thể kích hoạt một số giao dịch mua kỹ thuật và điều đó có thể rất tiêu cực đối với giá vàng”.
Trong tháng 7/2023, số lượng việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ tăng 187.000 việc, thấp hơn ước tính của Reuters là tăng 200.000 việc.
Phillip Streible, chiến lược gia trưởng thị trường của Blue Line Futures, Chicago, cho biết: “Chỉ số đồng đô la và lợi suất trái phiếu kho bạc được dự báo cao hơn một chút dựa trên điều đó và vàng tương lai có phản ứng im lặng”.
"Nếu chúng tôi nhận được dữ liệu CPI thấp hơn dự kiến, chúng tôi có thể khiến một số quan chức Fed ngừng quan điểm thắt chặt tiền tệ hơn nữa và chúng tôi có cơ hội tốt hơn nhiều để ổn định giá cả."
John Williams, chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, hy vọng rằng lãi suất có thể bắt đầu giảm vào năm tới. Mặc dù vàng được coi là một hàng rào chống lại lạm phát, nhưng lãi suất cao hơn làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi.
Trọng tâm của tuần này sẽ là dữ liệu về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ công bố vào thứ Năm, dữ liệu này có thể mang lại sự rõ ràng hơn về lập trường chính sách của Fed.
“Kỳ vọng của chúng tôi vẫn là xu hướng chỉ ra lạm phát thấp và do đó Fed không phải tăng lãi suất,” nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm khoảng 2,2% xuống 23,09 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,1% xuống 920,89 USD; palladium giảm 1,2% xuống còn 1.241,20 USD.
Nhà kinh tế Daniela Corsini của Intesa Sanpaolo đã viết trong một ghi chú: “Giá palladium có thể gần chạm đáy tạm thời do rủi ro nguồn cung có thể xuất hiện trở lại bởi căng thẳng địa chính trị”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tiếp tục giảm do lo ngại kéo dài về tình trạng dư thừa kim loại công nghiệp, dự trữ tăng, triển vọng nhu cầu kém tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới (Trung Quốc) và đồng USD mạnh lên.
Trên sàn London (LME), giá đồng kỳ hạn 3 tháng giảm 1% xuống 8.485 USD/tấn.
Dữ liệu từ Nhóm nghiên cứu đồng quốc tế cho thấy thị trường dư thừa 287.000 tấn trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 5.
Edward Meir, một nhà phân tích cung cấp nghiên cứu cho công ty môi giới Marex, cho biết: “Các nhà đầu tư không còn nhiệt tình mua đồng nữa bởi thực tế là hiện có khá nhiều đồng trên thị trường”.
Nguồn cung cấp đồng dự kiến sẽ cải thiện trong tháng 8 do nhiều nhà máy luyện đồng tiếp tục sản xuất sau khi bảo trì vào mùa hè và do có cơ hội thu được lợi nhuận tăng nhờ chi phí tinh chế và xử lý cao đối với chế biến tinh quặng đồng.
Tồn kho đồng trong các kho được LME phê duyệt tăng gần 50% kể từ ngày 12 tháng 7 lên 79.325 tấn.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,1% xuống 2.230 USD/tấn và kẽm giảm 0,4% xuống 2.493 USD trong khi chì tăng 0,3% lên 2.135 USD, thiếc tăng 0,3% lên 27.780 USD và niken giảm 0,9% lên 21.125 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á cũng giảm trong phiên này do thiếu vắng các biện pháp kích thích mạnh mẽ từ Trung Quốc khiến các nhà đầu tư lo lắng, trong khi lo ngại về nhu cầu thép dài hạn tiếp tục gây áp lực lên thị trường.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) giảm 11,5 CNY(khoảng 1,61 USD) xuống 719,5 CNY/tấn. Trên Sàn giao dịch Singapore, quặng sắt tháng 9/2023 cũng giảm 1% xuống còn 100,8 USD/tấn.
Người tiêu dùng và các công ty của Trung Quốc đang gửi hàng nghìn tỷ nhân dân tệ vào các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài hơn tại các ngân hàng, khiến một lượng tiền khổng lồ chảy ra khỏi hệ thống lưu thông hiệu quả và có nguy cơ tạo ra loại bẫy thanh khoản đã làm lung lay nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 1990.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương kỳ hạn trên sàn Chicago giảm 2,3% do thời tiết mưa ở hầu hết các vùng trồng trọt chính của Mỹ và dự báo về điều kiện phát triển tốt trong tháng 8 đã đẩy giá xuống mức thấp nhất trong hơn 5 tuần.
Giá lúa mì kỳ hạn tăng 3,9% do gia tăng lo ngại về nguồn cung toàn cầu sau khi căng thẳng ở khu vực Biển Đen gia tăng. Trong khi đó, thời tiết mùa màng thuận lợi gây áp lực lên thị trường ngô, mặt hàng đã giảm giá 9/10 phiên gần đây, nhưng mức giảm đã được kiểm soát nhờ đà tăng của lúa mì.
Kết thúc phiên, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 trên sàn Chicago (CBOT) giảm 31-1/4 cent xuống 13,02 USD/bushel, sau khi có lúc giảm xuống chỉ 12,91 USD. Giá lúa mì đỏ mềm vụ đông kỳ hạn giao tháng 9 tăng 24-1/2 cent lên 6,57-1/2 USD/bushel; trong khi ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 1-1/2 cent ở mức 4,95-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,05 US cent hay 0,2% lên 23,74 US cent/lb, sau khi có lúc giảm xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 7, là 23,40 US cent/lb. Hợp đồng này đã mất 1% trong tuần trước và 4,4% trong tuần trước đó.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2023 giảm 12,8 USD hay 1,8% xuống 686,2 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường có vẻ giao dịch chậm chạp và giá có thể giảm sâu hơn nữa. Mặc dù người tiêu dùng cuối có nhiều thứ để mua hơn, nhưng họ dường như không vội vàng khi vụ thu hoạch ở Brazil tiếp tục diễn ra nhanh chóng.
Tuy nhiên, triển vọng sản xuất không tốt ở những nơi khác và các nhà phân tích đang dự đoán về sự thiếu cung trên toàn cầu.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 kết thúc phiên tăng 2,6 US cent hay 1,6% đạt 1,6395 USD/lb, sau khi tăng 2,2% trong tuần trước đó; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 66 USD hay 2,7% lên 2.554 USD/tấn.
Nguồn cung cà phê arabica Brazil trên thị trường ICE đang tăng lên. Xuất khẩu cà phê robusta nước này cũng đang tăng do có lợi thế lớn về giá so với Việt Nam.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản giảm phiên thứ năm liên tiếp do đồng yên mạnh lên và giá giảm tại thị trường Thượng Hải sau khi lượng hàng tồn kho tăng.
Kết thúc phiên, cao su giao tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch Osaka giảm 0,5 yên, tương đương 0,3%, xuống 197,0 yên (1,39 USD)/kg. Giá hợp đồng này đã ở quanh mức thấp nhất trong hai năm kể từ ngày 18/7/2023.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2023 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 55 CNY, tương đương 0,4% xuống 12.900 CNY (1.794,33 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 9 tại sở giao dịch Singapore chốt phiên ở mức 128,0 US cent/kg, giảm 0,1%.
Tồn trữ cao su tại các kho của Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đã tăng 4,8% trong tuần qua, mức tăng mạnh nhất kể từ đầu năm nay.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
81,97
|
+0,03
|
+0,04%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
85,31
|
-0,03
|
-0,04%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
78.100,00
|
-100,00
|
-0,13%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,72
|
-0,01
|
-0,33%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
281,05
|
+0,61
|
+0,22%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
301,49
|
-0,06
|
-0,02%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
882,25
|
-6,75
|
-0,76%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
84.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.966,80
|
-3,20
|
-0,16%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.893,00
|
+41,00
|
+0,46%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,19
|
-0,05
|
-0,20%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
106,80
|
-0,50
|
-0,47%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
919,92
|
-4,41
|
-0,48%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.239,14
|
-7,40
|
-0,59%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
382,20
|
-1,30
|
-0,34%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.485,00
|
-88,00
|
-1,03%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.230,00
|
-2,50
|
-0,11%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.496,50
|
-7,50
|
-0,30%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
27.756,00
|
+56,00
|
+0,20%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
494,75
|
-1,00
|
-0,20%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
651,25
|
-6,25
|
-0,95%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
424,00
|
-3,00
|
-0,70%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,87
|
-0,05
|
-0,31%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.298,50
|
-3,50
|
-0,27%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
392,20
|
+0,60
|
+0,15%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
59,59
|
-0,26
|
-0,43%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
781,00
|
-16,50
|
-2,07%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.497,00
|
-1,00
|
-0,03%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
163,95
|
+2,60
|
+1,61%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
23,74
|
+0,05
|
+0,21%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
305,15
|
+3,75
|
+1,24%
|
Bông
|
US cent/lb
|
85,05
|
-0,29
|
-0,34%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
127,50
|
0,00
|
0,00%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|