Năng lượng: Giá dầu giảm khá mạnh trong tuần
Phiên giao dịch cuối tuần (thứ Sáu, 17/2), giá dầu hạ 2 USD/thùng và kết thúc tuần ở mức giảm rõ rệt do các thương nhân lo ngại rằng các đợt tăng lãi suất trong tương lai của Mỹ có thể ảnh hưởng đến nhu cầu và lo lắng về các dấu hiệu cho thấy nguồn cung dầu thô và nhiên liệu dồi dào.
Trong phiên này, gía dầu Brent kết thúc giảm 2,14 USD, hay 2,5%, xuống 83,00 USD/thùng, giảm 3,9% so với tuần trước; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,15 USD, tương đương 2,7%, xuống 76,34 USD, giảm 4,2% so với thứ Sáu tuần trước.
Hôm thứ Năm, hai quan chức của Fed đã cảnh báo việc tăng thêm chi phí vay là điều cần thiết để kiềm chế lạm phát. Đồng USD tăng giá khiến dầu trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Nhà phân tích Stephen Brennock của nhà môi giới dầu mỏ PVM cho biết: “Những người lo lắng về việc tăng lãi suất càng thêm lo lắng”.
Nhiều dấu hiệu về nguồn cung dồi dào cũng gây áp lực lên thị trường. Các nhà sản xuất dầu của Nga kỳ vọng duy trì khối lượng xuất khẩu dầu thô hiện tại, bất chấp kế hoạch cắt giảm sản lượng dầu của chính phủ vào tháng 3, tờ báo Vedomosti cho biết hôm thứ Sáu.
Báo cáo mới nhất về nguồn cung của Mỹ, được công bố vào thứ Tư, cho thấy tồn kho dầu thô trong tuần tính đến ngày 10 tháng 2 tăng 16,3 triệu thùng lên 471,4 triệu thùng, mức cao nhất kể từ tháng 6 năm 2021.
Bob Yawger, giám đốc phụ trách năng lượng tương lai của Mizuho, cho biết: “Bởi vì kho dự trữ dầu đang ở mức cao nhất trong 19 tháng, các nhà máy lọc dầu sẽ kéo dài mùa quay vòng càng lâu càng tốt”.
Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho biết số lượng giàn khoan dầu khí, một chỉ báo sớm về sản lượng dầu Mỹ trong tương lai, đã giảm 1 giàn khoan xuống còn 760 giàn khoan trong tuần tính đến ngày 17 tháng 2. Bất chấp sự sụt giảm giàn khoan trong tuần qua, Baker Hughes cho biết tổng số giàn khoan vẫn tăng 115, tương đương 18%, so với thời điểm này năm ngoái.
Tuy nhiên, giá dầu vẫn được hỗ trợ do Cơ quan Năng lượng Quốc tế và Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ đã nâng cao dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong năm nay, với lý do kỳ vọng nhu cầu của Trung Quốc sẽ nhiều hơn.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng năng lượng của Saudi Arabia cho biết thỏa thuận hiện tại của OPEC +, nhóm các nhà sản xuất OPEC với Nga và các nước khác, để cắt giảm mục tiêu sản lượng dầu 2 triệu thùng mỗi ngày, sẽ kéo dài cho đến cuối năm nay, đồng thời cho biết thêm rằng ông vẫn thận trọng đối với nhu cầu của Trung Quốc.
Kim loại quý: Giá vàng giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Giá vàng tăng cao vào thứ Sáu nhưng tính chung cả tuần giảm tuần thứ 3 liên tiếp, chịu áp lực bởi đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đều tăng sau những phát mới từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khẳng định chủ trương tiếp tục thắt chặt tiền tệ.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.842,27 USD/ounce; sau khi trước đó có lúc giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 12. Giá đã giảm 1,2% trong tuần này. Giá vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4 giảm 0,1% xuống 1.850,20 USD.
Phillip Streible, chiến lược gia trưởng phụ trách thị trường của Blue Line Futures ở Chicago, cho biết đồng đô la tăng giá, cùng với việc các thành viên của Fed ủng hộ việc tiếp tục tăng lãi suất đang đè nặng lên thị trường.
Các quan chức của Fed trong tuần này cho biết ngân hàng trung ương Mỹ chắc chắn sẽ tăng lãi suất nhiều hơn so với mức tăng hồi đầu tháng 2, với việc Thống đốc Fed Michelle Bowman nhắc lại mục tiêu lạm phát 2%. Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không có lợi suất. Giá của kim loại quý đã giảm khoảng 7,3% kể từ mức cao nhất trong 9 tháng hồi đầu tháng này. Goldman Sachs cho biết họ kỳ vọng Fed sẽ tăng lãi suất thêm ba lần nữa trong năm nay, mỗi lần tăng 1/4 điểm phần trăm.
Chỉ số đồng USD tăng tuần thứ ba liên tiếp, khiến vàng thỏi trở nên kém hấp dẫn hơn đối với người mua ở nước ngoài, trong khi lợi suất trái phiếu cũng tăng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,7% lên 21,7586 USD/ounce, trong khi palladium giảm 0,8% xuống 1.499,21 USD. Giá bạch kim ổn định ở mức 919 USD, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ tháng 11. Các nhà phân tích cho biết, Nga có khả năng hạn chế xuất khẩu các kim loại chủ chốt như palladium nếu Mỹ áp thuế cao đối với nhôm nhập khẩu từ Nga.
Kim loại công nghiệp: Giá tăng trong tuần do kỳ vọng vào nhu cầu của Trung Quốc
Giá đồng giảm trong phiên cuối tuần do dự đoán lãi suất của Mỹ sẽ tiếp tục tăng củng cố đồng đô la, nhưng tính chung cả tuần, giá tăng lần đầu tiên trong bốn tuần nhờ các dấu hiệu nhu cầu của Trung Quốc phục hồi.
Kết thúc phiên 20/2, hợp đồng đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) kết thúc phiên giảm 0,3% xuống 8.995 USD/tấn, tính chung cả tuần tăng 1,5% trong tuần.
Giá kim loại được sử dụng trong hệ thống dây điện đã đạt mức cao nhất trong 7 tháng, là 9.550,50 USD, vào tháng 1 khi đồng USD suy yếu và các nhà đầu cơ đặt cược rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ phục hồi.
Nhưng xu hướng phục hồi đã mất đà khi đồng USD tăng trở lại khiến kim loại trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua bằng các loại tiền tệ khác, và hàng tồn kho chất đống trong các nhà kho của Trung Quốc.
Dan Smith, trưởng bộ phận nghiên cứu của Amalgamated Metals Trading, cho biết tín dụng được bơm vào nền kinh tế Trung Quốc sẽ thúc đẩy tăng trưởng và tiêu thụ đồng. Ông cho rằng cung và cầu đồng sẽ tăng tốc, dự đoán thị trường sẽ thâm hụt khoảng 200.000 tấn trong năm nay và giá trên 10.000 USD/tấn vào cuối tháng 6. "Tôi nghĩ rằng giá sẽ xuống thấp hơn trong vài ngày tới”, "(Nhưng) tôi đang lạc quan về triển vọng 3-6 tháng."
Tại Trung Quốc, tốc độ dự trữ đồng tăng chậm lại, với dự trữ tại các kho của Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 3% lên 249.598 tấn trong tuần này.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,3% xuống 2.388 USD/tấn, kẽm tăng 2,1% lên 3.065 USD, niken giảm 2,6% xuống 25.800 USD, chì tăng 2,1% lên 2.072 USD và thiếc giảm 4,1% xuống 25.905 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng trong phiên thứ Sáu, trong khi quặng sắt giảo dịch ở Singapore đạt mức cao nhất trong 2 tuần, do hy vọng ngày càng tăng rằng Trung Quốc sẽ đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ nền kinh tế.
Hợp đồng quặng sắt được giao dịch nhiều nhất – kỳ hạn tháng 5 - trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 2% lên 889,5 nhân dân tệ (129,29 USD)/tấn, duy trì mức tăng hàng tuần khoảng 3%. Trên Sàn giao dịch Singapore, quặng sắt giao tháng 3 tăng 1,7 USD lên 126,70 USD/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 1/2. Giá quặng sắt đã tăng lên 120-130 USD/tấn từ mức thấp nhất trong tháng 11 là dưới 90 USD, nhờ các biện pháp hỗ trợ và mở cửa trở lại của Trung Quốc dành cho các nhà phát triển bất động sản.
Các nhà phân tích cho biết có nhiều hy vọng rằng Bắc Kinh sẽ công bố thêm các biện pháp kích thích kinh tế tại phiên họp thường niên của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc vào tháng tới.
Một yếu tố khác giúp nâng đỡ giá, giá nhà mới của Trung Quốc đã tăng vào tháng 1, lần tăng đầu tiên trong một năm. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tuyên bố “chiến thắng quyết định” đối với COVID-19.
Giá thép cây trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 1,4%, thép cuộn cán nóng tăng 1%, dây thép cuộn tăng 0,2% và thép không gỉ tăng 0,4%.
Nông sản: Giá ngũ cốc, cao su và đường giảm trong tuần, riêng cà phê tăng
Giá ngô, đậu tương Mỹ tăng trong phiên cuối tuần khi các thương nhân chốt các vị thế bán trước kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài ba ngày của Mỹ và cân nhắc triển vọng vụ mùa tương phản ở Nam Mỹ.
Sự không chắc chắn về tương lai của hành lang xuất khẩu ngũ cốc ở Biển Đen đã củng cố các giá trị hợp đồng, trong khi đồng USD mạnh lên và giá dầu thô giảm đã hạn chế đà phục hồi.
Kết thúc phiên, giá đậu tương giao tháng 3 tăng 2 US cent lên 15,28-1/2 USD/bushel; ngô giao cùng kỳ hạn tăng 1-1/4 US cent lên 6,77-1/4 USD/bushel; lúa mì giao tháng 3 tăng 1-1/4 cent lên 7,66-1/4 USD/bushel.
Tính chung cả tuần, giá ngô và đậu tương giảm khi các thương nhân chuyển trọng tâm từ các vấn đề về cây trồng bị hạn hán ở Argentina sang kỳ vọng về vụ thu hoạch đậu tương lớn kỷ lục của Brazil.
Các mặt hàng nông sản của Mỹ đang chịu sự cạnh tranh từ nông sản của khu vực Nam Mỹ và Biển Đen. Do điều kiện thời tiết ở Nam Mỹ và quy mô cây trồng đã được biết đến rộng rãi, giá hàng hóa trên sàn CBOT có khả năng sụt giảm khi khu vực Bắc Mỹ bước vào mùa trồng trọt.
Kỳ nghỉ Lễ Tổng thống rơi vào ngày 20/2 tại Mỹ, điều này làm hạn chế khối lượng giao dịch. Do vụ thu hoạch ở Nam Mỹ kéo dài, áp lực lên giá hàng hóa giao dịch trên sàn CBOT sẽ tăng lên.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) báo cáo rằng 120.800 tấn ngô của Mỹ đã được bán cho một người mua không xác định.
Cũng trong phiên cuối tuần, giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 0,04 cent, tương đương 0,2%, xuống 21,41 cent/lb; tính chung cả tuần giảm 0,8%. Giá đường trắng giao tháng 5 tăng 0,40 USD, tương đương 0,1%, lên 568,00 USD/tấn, sau khi đã giảm 0,5% trong tuần.
Fitch Solutions cho biết trong một lưu ý rằng giá đường toàn cầu đang nhận được sự hỗ trợ từ một số yếu tố, bao gồm việc chuyển hướng mía sang sản xuất ethanol ở Ấn Độ và sự không chắc chắn đối với sản xuất ở châu Âu sau lệnh cấm thuốc trừ sâu.
Giá cà phê arabica giao tháng 5 kết thúc tuần tăng 5,5 cent, tương đương 3,1%, lên 1,8575 USD/lb sau khi thiết lập mức cao nhất trong 3 tháng rưỡi là 1,8685 USD; tính chung cả tuần tăng 6,36%. Cà phê robusta giao cùng kỳ hạn tăng 26 USD, tương đương 1,3%, lên 2.098 USD/tấn; tính chung cả tuần tăng 3%.
"Rủi ro về nguồn cung có thể đóng một vai trò quan trọng trong xu hướng giá tăng gần đây. Vụ mùa gặp rủi ro do mưa lớn ở cả Brazil và Colombia, hai nhà sản xuất cà phê arabica hàng đầu thế giới", Commerzbank cho biết trong một báo cáo.
Nông dân trồng cà phê Brazil đã bán 78% sản lượng của vụ mùa hiện tại (23/2022, từ tháng 7 đến tháng 6) trước ngày 15 tháng 2, tốc độ bán chậm hơn so với thời điểm này trước đây, công ty tư vấn Safras & Mercado cho biết.
Tại Châu Á, hoạt động giao dịch tại Việt Nam vẫn trầm lắng do nguồn cung trong nước hạn chế, mặc dù người mua ủng hộ cà phê robusta của Việt Nam do nguồn cung tại Indonesia còn rất ít.
Nông dân ở Tây Nguyên, vùng trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam, bán hạt cà phê với giá 43.700 đồng đến 44.500 đồng ($1,85-$1,88) một kg, cao hơn mức 42.400 đồng đến 44.000 đồng của tuần trước.
"Sản lượng niên vụ này thấp hơn 30% so với niên vụ trước. Vì vậy, nguồn cung từ nông dân hiện đang cạn kiệt", một thương lái ở Tây Nguyên cho biết. "Mặc dù nhu cầu cao nhưng giao dịch vẫn chưa tăng."
Một thương nhân khác cho biết nông dân ở một số khu vực trong vành đai cà phê đang thay thế những cây cà phê cũ bằng những cây mới để có sản lượng tốt hơn. “Phải mất 3 năm cây mới cho trái,” thương lái nói. "Sản lượng có thể ở mức đó hoặc thậm chí thấp hơn một chút trong vài năm tới."
Tại Indonesia, cà phê robusta Sumatra được chào giá cao hơn 90 USD so với hợp đồng giao tháng 3 trên sàn London, giảm so với mức cộng 110 USD của uần trước do nguồn cung bắt đầu tăng dần.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản tăng vào thứ Sáu, được hỗ trợ bởi đồng yên yếu đi, nhưng tính chung cả tuần giảm tuần thứ 3 liên tiếp.
Hợp đồng cao su giao tháng 7 của Sàn giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên tăng 3,5 yên, tương đương 1,6%, lên 222,3 yên (1,65 USD)/kg; trong phiên có lúc giá xuống chỉ 217,6 JPY. Tính chung cả tuần, hợp đồng này đã mất khoảng 1,0%. Hợp đồng cao su SNRv1 giao tháng 5 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 75 CNY xuống còn 12.490 CNY (1.816 USD)/tấn.
Tồn kho cao su tại các kho do Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giám sát đã tăng 1,0% so với một tuần trước đó, sàn giao dịch cho biết hôm thứ Sáu.
Giá hàng hóa thế giới 

 

ĐVT

Giá 10/2

Giá 17/2

17/2 so với 16/2

17/2 so với 16/2 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

79,00

76,50

+0,16

+0,21%

Dầu Brent

USD/thùng

85,67

83,27

+0,27

+0,33%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

65.210,00

64.990,00

-1.150,00

-1,74%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,55

2,22

-0,05

-2,33%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

248,30

240,94

+0,12

+0,05%

Dầu đốt

US cent/gallon

284,85

273,96

+2,75

+1,01%

Dầu khí

USD/tấn

829,75

798,75

+7,50

+0,95%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.870,70

1.849,40

-0,80

-0,04%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.871,00

7.935,00

+34,00

+0,43%

Bạc New York

USD/ounce

21,89

21,86

-0,01

-0,03%

Bạc TOCOM

JPY/g

93,00

94,80

+1,80

+1,94%

Bạch kim

USD/ounce

945,77

921,90

+0,69

+0,07%

Palađi

USD/ounce

1.554,00

1.496,54

-6,05

-0,40%

Đồng New York

US cent/lb

400,55

409,80

-0,70

-0,17%

Đồng LME

USD/tấn

8.857,50

8.987,50

-35,50

-0,39%

Nhôm LME

USD/tấn

2.440,50

2.387,50

-6,50

-0,27%

Kẽm LME

USD/tấn

3.042,50

3.058,00

+54,50

+1,81%

Thiếc LME

USD/tấn

27.349,00

25.856,00

-1.148,00

-4,25%

Ngô

US cent/bushel

679,00

677,50

+2,50

+0,37%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

793,50

776,25

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

375,00

348,75

-2,75

-0,78%

Gạo thô

USD/cwt

18,09

17,84

-0,01

-0,06%

Đậu tương

US cent/bushel

1.546,50

1.522,25

+1,00

+0,07%

Khô đậu tương

USD/tấn

483,00

474,90

-0,30

-0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

60,44

61,75

-0,40

-0,64%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

823,20

820,30

+2,10

+0,26%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.606,00

2.771,00

+24,00

+0,87%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

174,65

185,75

+5,50

+3,05%

Đường thô

US cent/lb

20,04

19,80

+0,03

+0,15%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

252,55

233,55

+5,60

+2,46%

Bông

US cent/lb

85,58

81,50

-0,50

-0,61%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

419,60

382,10

-7,30

-1,87%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,60

139,80

+0,70

+0,50%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)