Năng lượng: Giá dầu đi ngang
Giá dầu tăng trong phiên cuối tuần, song tính chung cả tuàn gần như không thay đổi trong bối cảnh lo ngại xuất khẩu dầu tư Nga giảm nhưng tồn trữ dầu thô của Mỹ lại tăng và lo lắng về triển vọng hoạt động kinh tế toàn cầu.
Kết thúc phiên 24/2, giá dầu thô Brent tăng 95 US cent, tương đương 1,2%, lên 83,16 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 93 US cent, tương đương 1,2%, lên 76,32 USD/thùng. Trước đó trong phiên, cả hai loại dầu đều giảm hơn 1 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều duy trì ổn định.
Khối lượng giao dịch giảm đã góp phần gây ra sự biến động, với giao dịch dầu Brent ở mức 58% và giao dịch dầu WTI ở mức 90% so với mức của phiên trước đó.
Tính từ đầu năm đến nay, giá dầu Brent đã mất 15% so với 1 năm trước đó. Giá dầu này đã đặt mức cao nhất trong 14 năm là gần 128 USD/thùng vào ngày 8/3/2022.
Cả hai loại dầu đều tăng khoảng 2% trong phiên trước đó do Nga có kế hoạch cắt giảm 25% xuất khẩu dầu từ các cảng phía tây trong tháng 3, cao hơn nhiều so với mức dự kiến cắt giảm sản lượng 500.000 thùng/ngày.
Tuy nhiên, nguồn cung trên thị trường có vẻ dồi dào khi lượng tồn trữ của Mỹ cao nhất kể từ tháng 5 năm 2021, theo dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ.
Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết, một chỉ báo về nguồn cung trong tương lai, số giàn khoan dầu của Mỹ đã giảm 7 giàn xuống còn 600 giàn trong tuần này, trong khi tổng số vẫn tăng 103 giàn, tương đương 15,8%, so với thời điểm này năm ngoái.
Các dấu hiệu cho thấy sản phẩm dầu thô và tinh chế của Nga đang bị dồn lại trên các tàu chở dầu trôi nổi trên biển cũng cho thấy sự gia tăng nguồn cung. JP Morgan dự báo OPEC sẽ cắt giảm sản lượng để hạn chế đà sụt giảm giá dầu.
Biên bản cuộc họp mới nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho thấy hầu hết các quan chức vẫn tỏ quan điểm tích cực tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát và các điều kiện thị trường lao động vẫn thắt chặt, báo hiệu việc thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa.
Triển vọng nâng lãi suất mạnh hơn đã hỗ trợ đồng USD, khiến chỉ số đồng tiền này tăng tuần thứ tư liên tiếp. Chỉ số này đã tăng 2,5% trong tháng Hai. Đồng USD mạnh hơn làm các hàng hoá được neo giá theo “đồng bạc xanh” trở nên đắt đỏ hơn đối với người nắm giữ những đồng tiền khác.
JP Morgan cho biết trong một lưu ý rằng họ cho rằng giá trong ngắn hạn có nhiều khả năng sẽ giảm xuống mức 70 USD hơn là tăng "khi những cơn gió ngược như tăng trưởng toàn cầu mạnh lên (khiến Fed sẽ tăng lãi suất) và tồn trữ tăng".
Ngân hàng này cũng cho biết họ kỳ vọng Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) sẽ cắt giảm sản lượng để hạn chế đà giảm của giá dầu.
Kim loại quý: Giá vàng thấp nhất năm 2023
Giá vàng kết thúc tuần giảm xuống mức thấp nhất 8 tuần do đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng mạnh trong bối cảnh thị trường chuẩn bị cho việc Fed sẽ tăng lãi suất mạnh trong những tháng tới.
Kết thúc phiên 24/2, giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.810,89 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ ngày 30/12/2022, là 1.808,7 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 4/2023 giảm 0,5% xuống 1.817,7 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng giảm khá mạnh.
Lạm phát của Mỹ tăng mạnh, trong khi chi tiêu tiêu dùng tăng trở lại 1,8% trong tháng 1/2023 củng cố kỳ vọng Fed sẽ vẫn duy trì việc tăng lãi suất.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp tại OANDA cho biết, lợi suất đang tăng lên sau dữ liệu trên, đồng thời hỗ trợ thêm cho sức mạnh của đồng đô la, vốn là cơn gió ngược đối với vàng. Chỉ số Dollar index đã tăng lên mức cao nhất trong bảy tuần, trong khi lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng tuần thứ 5 liên tiếp.
Với dữ liệu hàng hóa lâu bền của Mỹ sẽ được công bố vào tuần tới, "hoạt động sản xuất dự kiến sẽ tăng lên...bạn có thể sẽ có thêm bằng chứng cho thấy nền kinh tế không suy yếu, điều này về lý thuyết sẽ làm tăng thêm lo lắng về lạm phát", ông Moya nói thêm.
Sau một loạt dữ liệu kinh tế mạnh mẽ, các nhà đầu tư đã giảm bớt kỳ vọng về việc Fed cắt giảm lãi suất sâu trong năm nay và kỳ vọng lãi suất của Mỹ sẽ đạt đỉnh vào tháng 7, ở mức 5,35%, và duy trì trên 5% cho đến cuối năm. Lãi suất tăng làm giảm sức hấp dẫn của vàng khi chúng làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lãi.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay kết thúc tuần giảm 2,3% xuống 20,81 USD, trong khi bạch kim giảm 4% xuống 909,07 USD.
Palladium, được các nhà sản xuất ô tô sử dụng trong bộ chuyển đổi xúc tác để hạn chế khí thải, đã giảm 2,7% xuống còn 1.386,93 USD, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 8 năm 2019 là 1.363,52 USD.
Edward Meir, nhà phân tích kim loại của Marex, cho biết: “Palladium không phải là kim loại đang thịnh hành với trọng tâm là kim loại được sử dụng trong xe điện.
“Tôi không nghĩ rằng palladium đang nhận được nhiều lực kéo từ các chỉ số kỹ thuật rất kém cũng như các nguyên tắc cơ bản có vẻ cũng không được tốt lắm.”
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm
Giá đồng kết thúc tuần giảm xuống mức thấp nhất gần 7 tuần do đồng USD tăng mạnh và nhu cầu tại Trung Quốc vẫn yếu.
Đồng USD tăng mạnh khiến kim loại trở nên đắt đỏ hơn đối với những người mua bằng các loại tiền tệ khác. USD tăng do dữ liệu kinh tế mạnh mẽ của Mỹ và con số lạm phát cao làm tăng kỳ vọng rằng lãi suất của Mỹ sẽ duy trì ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn. Thị trường chứng khoán toàn cầu tuần qua sụt giảm theo tuần giảm mạnh nhất trong một năm.
Tại Trung Quốc, tồn kho đồng tiếp tục tăng - mặc dù với tốc độ chậm hơn so với những tuần gần đây - và mức cộng giá nhập khẩu giảm, báo hiệu nhu cầu yếu.
Tin tức rằng Hoa Kỳ sẽ tăng thuế đối với hơn 100 sản phẩm kim loại, khoáng sản và hóa chất của Nga đã ảnh hưởng rất ít đến giá trên Sàn giao dịch kim loại London (LME).
Kết thúc phiên cuối tuần, giá đồng trên sàn London giảm 2,1% xuống 8.718 USD/tấn, sau khi chạm 8.705 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 9/1/2023. Tính chung cả tuần, giá giá đồng giảm 3%.
Chỉ một tháng trước, giá đồng đã tăng lên 9.550,50 USD khi đồng USD suy yếu và các nhà đầu cơ đặt cược rằng nhu cầu của Trung Quốc sẽ phục hồi sau đợt sụt giảm năm ngoái.
Tom Price, chiến lược gia của Liberum cho biết: “Điều khó chịu đối với những nhà đầu tư đó là họ đã gửi tiền bằng đồng và các nguyên tắc cơ bản không thực sự thay đổi nhiều”.
Mức chênh lệch mà Yangshan trả để nhập khẩu đồng vào Trung Quốc đã giảm xuống 22,50 USD/tấn từ mức 144,50 USD vào đầu tháng 11.
Về những kim loại cơ bản khác, kết thúc phiên 24/2, giá nhôm giảm 2,4% xuống 2.338,50 USD/tấn, kẽm giảm 2,3% xuống 2.964,50 USD, niken giảm 2,8% xuống 24.655 USD và thiếc giảm 2% xuống 25.650 USD, chì tăng 1% lên 2.078 USD. Tất cả đều giảm trong tuần qua.
Các nhà phân tích của Citi cho biết thiếc sẽ giảm xuống còn 24.000 đô la trong ba tháng tới "do rủi ro nguồn cung giảm bớt, nhu cầu vật chất chậm chạp, hàng tồn kho cao và vị thế mua ròng của nhà đầu tư tăng so với các kim loại cơ bản khác."
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á giảm do nhu cầu đối với nguyên liệu sản xuất thép giảm, song tính chung cả tuần vẫn tăng.
Theo đó, quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên phiên cuối tuần giảm 0,2% xuống 909,5 CNY (131,19 USD)/tấn; tính chung cả tuần giá tăng gần 3%. Trong khi đó, giá quặng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore giảm 1% xuống 128,5 USD/tấn trong phiên này; tính chung cả tuần giá 1,6%. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,9%, thép cuộn cán nóng giảm 0,3%, thép cuộn giảm 0,1% và thép không gỉ giảm 0,4%.
Các nhà sản xuất quặng sắt lớn như BHP Group và Rio Tinto RIO cho biết nhu cầu quặng sắt của Trung Quốc hồi phục sau khi Bắc Kinh dỡ bỏ các hạn chế chống Covid-19 và đưa ra các biện pháp hỗ trợ cho các nhà phát triển bất động sản gặp khó khăn.
Nông sản: Giá ngũ cốc giảm trong tuần
Giá ngô Mỹ phiên cuối tuần giảm xuống mức thấp 6 tuần, trong khiu lúa mì chạm mức thấp nhất hơn 4 tuần do lo ngại về cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu trên toàn cầu.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2023 kết thúc phiên 24/2 giảm 10 US cent xuống 6,49-1/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ ngày 10/1/2023; lúa mì kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 28-3/4 US cent xuống 7,21-3/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ ngày 23/1/2023. Tính từ đầu năm đến nay, giá lúa mì giảm 18%, trong khi giá ngô giảm 5% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 8 US cent xuống 15,19-1/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 15/2/2023.
Ngô Brazil giá rẻ đang cạnh tranh với ngô Mỹ trên thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, hạn hán ở Argentina ảnh hưởng lớn tới vụ mùa.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE giảm 0,3 US cent, tương đương 1,4%, xuống 21,28 US cent/lb; tính chung cả tuần giá giảm 0,6%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London giảm 12,7 USD, tương đương 2,2%, xuống 562 USD/tấn.
Các đại lý cho biết giá được hỗ trợ ở mức trên 20 US cent do nguồn cung vẫn hạn hẹp. Sản lượng mía Brazil tăng sẽ dẫn đến sản lượng lượng ethanol hydro làm nhiên liệu sinh học năm nay dự kiến tăng so với năm 2022, nhà môi giới và nhà phân tích StoneX cho biết. Chính phủ Brazil vẫn chưa có quyết định về việc khôi phục thuế liên bang đối với nhiên liệu.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn ICE giảm 2 US cent tương đương 1,1% xuống 1,877 USD/lb. Tuần này có lúc giá arabica đạt mức cao nhất 4 tháng (1,9415 USD/lb). Tính chung cả tuần, giá cà phê arabica tăng 1%. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London giảm 10 USD tương đương 0,5% xuống 2.151 USD/tấn.
Dữ liệu của Bộ Thương mại Brazil cho thấy xuất khẩu cà phê đã giảm 45% trong tháng 2 và nhà môi giới HedgePoint đã cắt giảm dự báo cho vụ mùa mới.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản phiên cuối tuần giảm theo xu hướng giá cao su tại thị trường Thượng Hải giảm, song tính chung cả tuần tăng tuần đầu tiên trong 4 tuần.
Kết thúc phiên này, giá cao su kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Osaka (OSE) giảm 0,7 JPY, tương đương 0,3%, xuống 225 JPY (1,67 USD)/kg, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 9/1/2023 (227,6 JPY/kg) lúc đầu phiên giao dịch; cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 30 CNY xuống 12.590 CNY (1.817 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore giảm 0,7% xuống 138,6 US cent/kg.
Dữ liệu cho thấy vào thứ Sáu, lạm phát tiêu dùng cơ bản của Nhật Bản tháng 1 đã đạt mức cao mới trong vòng 41 năm khi các công ty chuyển chi phí cao hơn cho các hộ gia đình, khiến ngân hàng trung ương chịu áp lực phải loại bỏ dần chương trình kích thích khổng lồ.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 17/2
|
Giá 24/2
|
24/2 so với 23/2
|
24/2 so với 23/2 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,50
|
76,29
|
-0,03
|
-0,04%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
83,27
|
83,09
|
-0,07
|
-0,08%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
64.990,00
|
66.230,00
|
+960,00
|
+1,47%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,22
|
2,58
|
+0,03
|
+1,33%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
240,94
|
236,31
|
+0,44
|
+0,19%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
273,96
|
281,74
|
+2,12
|
+0,76%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
798,75
|
816,00
|
+7,75
|
+0,96%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.849,40
|
1.817,10
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.935,00
|
7.907,00
|
+16,00
|
+0,20%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,86
|
20,73
|
-0,21
|
-1,01%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
94,80
|
91,70
|
-1,40
|
-1,50%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
921,90
|
912,28
|
-0,75
|
-0,08%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.496,54
|
1.418,43
|
+2,81
|
+0,20%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
409,80
|
397,05
|
+1,75
|
+0,44%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.987,50
|
8.716,50
|
-187,50
|
-2,11%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.387,50
|
2.335,50
|
-60,50
|
-2,53%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.058,00
|
2.964,00
|
-70,50
|
-2,32%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.856,00
|
25.651,00
|
-520,00
|
-1,99%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
677,50
|
651,25
|
+2,00
|
+0,31%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
776,25
|
721,50
|
-0,25
|
-0,03%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
348,75
|
345,25
|
-0,25
|
-0,07%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,84
|
17,07
|
+0,04
|
+0,23%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.522,25
|
1.517,50
|
-1,75
|
-0,12%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
474,90
|
479,30
|
-0,70
|
-0,15%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
61,75
|
61,15
|
-0,07
|
-0,11%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
820,30
|
823,30
|
+3,60
|
+0,44%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.771,00
|
2.748,00
|
-22,00
|
-0,79%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
185,75
|
187,70
|
-2,00
|
-1,05%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,80
|
19,67
|
-0,67
|
-3,29%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
233,55
|
248,40
|
+10,00
|
+4,19%
|
Bông
|
US cent/lb
|
81,50
|
83,53
|
-1,37
|
-1,61%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
382,10
|
400,80
|
+11,60
|
+2,98%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
139,80
|
139,50
|
-2,40
|
-1,69%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|